
III. Miền Hoang Tưởng Cuốn Theo Chiều Gió Lửa
Có một lúc, anh có cảm tưởng như cả hai bên, lính quốc gia và du kích cộng sản trên đảo muốn quên hẳn cả cái việc là phải đánh lẫn nhau. Họ cứ lừ lừ, mặc nhiên chung sống hoà bình để yên hưởng cái cảnh tự do mênh mông của biển cả và của núi rừng. Lâu lắm không nghe thấy một tiếng súng từ trong núi bắn vào các ấp. Cũng lâu lắm không thấy lính đi mở các cuộc hành quân. Sự yên bình đã như đưa hòn đảo trở lại một thời hoang sơ nào đó, xa hẳn cái thế giới đầy cảnh hỗn loạn, bất an bên ngoài.
Nhưng thời gian này đã chẳng kéo dài được bao lâu, khi mà những bản báo cáo hàng tháng về các hoạt động quân sự gửi về Tiểu Khu không có gì hấp dẫn. Phía bên kia chắc cũng vậy, Tỉnh Ủy cũng đã chán đọc những phúc trình trống trơn, chẳng có sự quấy phá nào cả. Cả hai bên lúc đó chẳng còn có thể ngồi yên mà ngắm biển, ngắm rừng được nữa. Lính quốc gia phải bỏ những ngày lai rai họp nhau ngồi nhậu trong quán, phải bỏ những buổi ôm con nằm trên võng, mơ màng hát ầu ơ trong Trại Gia Binh. Còn du kích cũng không còn dịp ngồi hơ tay trên đống lửa chờ khoai mì nướng chín trong một xó núi nào đó. Tất cả đã bị buộc chặt vào một guồng máy, và tất cả đều bị cuốn theo không thể cưỡng lại được. Cũng không thể ngưng lại được, nếu không theo chắc rồi cũng bị nghiến nát.
Bắt đầu dường như bị cấp trên khiển trách ăn không ngồi rồi, cả hai bên đều mò ra làm bộ đánh nhau cho có lệ. Tối nào, mọi người cũng chẳng cần phải đợi lâu để được nghe mấy loạt súng bắn bâng quơ vào nhau, vọng từ hai bên bờ sông Dương Đông, ngả ngoài phi trường như báo cho biết họ đã làm xong cái nhiệm vụ cuối cùng của một ngày và mọi người có thể đi ngủ yên mà không bị ai phá giấc nữa.
Trò chơi này hình như cũng không qua mặt cấp trên lâu được, hay có lẽ lúc đầu đánh nhau chơi sau thành đánh nhau thật. Một lần, một viên đạn bâng quơ đâu đó đã trúng vào đầu và làm thiệt mạng một anh nghĩa quân, đang ngồi ăn bữa cơm tối do vợ đưa đến đồn canh. Nhìn máu anh chảy loang vào chén cơm đổ trên sàn xi măng, làm mọi người tức giận.
Vài tuần sau, tình báo chi khu khám phá được một chòi thám thính của Việt Cộng ngay ở sườn núi đầu phi trường, bèn mở cuộc phục kích, một tên chạy thoát, một tên bị bắt sống. Hôm đó, anh cùng Quận Thanh và Đại úy Hùng đi ở toán sau, lúc tới nơi được báo cáo tên Việt cộng rất lì lợm, không khai thác được, cố vùng thoát và cuối cùng đã bị bắn hạ. Trên đường trở về quận, Thạch Sinh, Hạ Sĩ thám báo nói với anh:
- Thế nào tụi nó cũng đến lấy xác về, em đã gài bẫy lựu đạn xung quanh và thêm một quả mở chốt đặt ngay dưới bụng.
Tối hôm đó, anh cùng mấy người ngồi uống la-de với cá khô thiều trên lầu quận, đợi tiếng nổ từ trong núi vọng ra để chơi nốt cái trò chơi của chiến tranh.
Hai bên đã bắt đầu vào một cuộc chơi thật. Hai Cu, Ủy Viên An Ninh cuả Hội Đồng Xã Dương Đông bị một trái lựu đạn từ đâu liệng vào quán nổ tung, trong khi cùng ngồi với mấy người bạn uống cà phê.
Mấy đêm sau, đang nằm ngủ anh giật mình tỉnh dậy, nghe giọng Thiếu Úy Bình từ đồn Hàm Ninh qua máy âm thoại báo cho biết đồn đang bị tấn công. Mười phút sau, Thiếu Úy Bình kêu lại, mất bình tĩnh, giọng la hoảng vì bị hỏa lực của địch quá mạnh, quên mất cả dùng mật mã:
- Đại Úy! Đại Úy! Tụi nó bắn rát quá, không ra được. Chắc đồn mất đêm nay quá. Đại Úy điện xin máy bay ra dội bom yểm trợ hộ. Chắc chết đêm nay mất Đại Úy ơi!
Nghe giọng Thiếu Úy Bình, anh nhớ đến cái đồn nhỏ đó, cô lập như miếng mồi ngon, không nơi tiếp cứu, lúc bị đánh rất dễ mất tinh thần. Hồi lâu, Thiếu Úy Bình vẫn cố bám vào máy kêu cứu, khiến Đại Úy Hùng nổi quạu:
- Thế này thì đánh đấm cái con mẹ gì! Ra ngoài mà chỉ huy lính đi chứ, cứ ngồi đó mà lải nhải thì đồn mất là cái chắc!
Anh lại nghe Đại Úy Hùng quát lớn:
- Đánh bỏ mẹ chúng nó đi, chúng nó đâu có bao nhiêu! Để tôi gọi An Thới đem chiến hạm đến!
Nói xong, Đại Úy Hùng tắt máy chửi thề:
- Từ ngày ông đi lính đóng đồn có thấy cái máy bay nào nó đến tiếp cứu đâu. Đã ở đảo mà còn ham, sao nó ngu thế!
Rồi ông quay sang liên lạc với Duyên khu 4 An Thới xem có chiến hạm nào gần đó đến bắn cho mấy vài phát yểm trợ tinh thần. Duyên khu 4 trả lời sẽ liên lạc với hạm đội. Anh lại nghe thấy Đại Úy Hùng chửi thề:
- Chờ liên lạc được thì đồn mất mẹ nó rồi còn gì!.
Gần sáng, mọi người hồi hộp gọi lại Hàm Ninh, thì may quá đồn không mất!
*
Áp lực cuả Việt Cộng ngày càng gia tăng phía Đông đảo, khiến quận phải quyết định rút tiểu đội Địa Phương Quân từ ấp Bãi Bổn về Hàm Ninh, nếu không sẽ có ngày mất cả lính với ấp. Mà bỏ trống Bãi Bổn tức là mất Bãi Bổn, mà mất thật!
Sau đó, thỉnh thoảng anh có dịp đi qua vùng biển trên, và lần nào cũng thế anh dùng viễn kính cố nhìn vào ấp Bãi Bổn. Vẫn còn những hàng dừa xanh chạy dài theo bãi biển nhưng chẳng còn một mái nhà nào. Tự nhiên anh nhớ lại, những lần trước, ngồi bập bềnh trên thuyền, đợi ghe nhỏ trong ấp ra đón, tưởng tượng như có những trai tráng lực lưỡng mình trần đang sửa soạn đánh những tiếng trống bập bùng và những cô gái đảo đang sửa soạn những vòng hoa để quàng vào cổ những khách lạ. Bây giờ thì không còn tưởng tượng được nữa. Ông già Tám Vân, một thời đóng vai cướp biển nghĩa hiệp và mọi người đã tan tác đi về một phương trời nào rồi. Họ có muốn ở lại cũng không được nữa, Việt Cộng đã san bằng ấp này rồi, nếu không thì cũng bị chiến hạm đi qua thỉnh thoảng nã vào một vài quả trọng pháo như nã vào các vùng tự do pháo kích.
Mất một ấp, quận phải tìm cách tạo thêm các ấp khác, nhưng lần này không dễ dàng gì như những lần trước. Số dân còn lại đều nằm sâu trong đảo, sống dựa vào các vườn tiêu hay làm rẫy. Nếu lập ấp ngay nơi đó thì không thể được, mà tìm cách quy dân thì thật khó khăn vô cùng.
Anh được yêu cầu viết một thông cáo kêu gọi dân chúng di chuyển về xã Dương Đông. Họ sẽ được giúp đỡ, cấp đất, cây và mái tôn để làm nhà, gạo cùng thực phẩm trong những tháng đầu. Trong thông cáo cũng không quên đề cập đến lợi ích cuả việc quy dân về các vấn đề y tế, xã hội, kinh tế, giáo dục và an ninh..v..v.. Thông cáo ra đã nhiều lần mà chẳng thấy ai nhúc nhích. Quận bèn phải dùng cách xua dân. Lần đầu đi bằng đường bộ, đã nhùng nhằng lại bị du kích bám theo chặn đường. Hôm đó, anh đứng chờ ở ngả phi trường để chuẩn bị tiếp cư, nhưng được tin họ phải trở về tay không và thám báo cho biết, may mà chỉ có ‘’một con’’ bị thương. Lần sau, quận cố dùng cách đưa dân ra phiá biển, gần hơn và có ghe chờ để di chuyển. Lôi thôi thế nào, cũng vẫn bị du kích bám theo, tỉa làm mất luôn ‘’một con’’. Quận đành phải ngưng mọi kế hoạch quy dân.
Mỗi lần có lính chết, anh lại phải nghe hàng tuần dài tiếng gào khóc, kể lể của người vợ lính từ khu trại gia binh phía sau quận. Nhiều đêm ngủ không nổi. Có lần anh xuống thăm, thấy tội nghiệp người đàn bà, mắt sưng húp, nhìn thấy anh, chị ta lại càng vật vã, gào to bên cạnh mấy đứa con nhỏ mình trần lem luốc, ê a như chẳng biết có chuyện gì xảy ra. Nhìn những cảnh đó, anh không thể cầm lòng được, nhiều lúc muốn khóc. Nghĩ đến không hiểu tương lai người đàn bà và những đứa trẻ thơ này rồi sẽ ra sao.
Đại Úy Hùng mỗi lần nghe tiếng khóc thì sốt ruột chịu không nổi, luôn luôn giục anh:
- Ông tìm hộ một số tiền nào giúp mẹ con nó về quê, chứ ở đây chờ tiền tử tuất thì đến bao giờ. Mà nó cứ ngồi khóc như thế này thì lòng dạ nào mà lính nó đánh nhau được!
Mỗi lần có một tên du kích nào bị hạ, nhận diện được có liên hệ với người trong quận, lính thường cố mang xác về nhà lồng chợ để bà con họ mang về chôn cất, cũng là luôn thể để cảnh cáo. Chẳng có ai dám lên nhận, để lâu ruồi bâu làm các tiệm xung quanh phải đóng cửa, nên lính thường phải đến tận nhà áp tải người liên hệ đến nhận mang về.
*
Sau một ít tuần điều nghiên, quận và chi khu đều đồng ý không thể dùng quân sự được và quyết định dùng biện pháp bao vây kinh tế để quy dân. Biện pháp này cần phải một thời gian dài, nhưng an toàn hơn.
Phú Quốc là một hòn đảo có nhiều tài nguyên quan trọng. Lâm sản có gỗ quý, khoáng sản có một vài quặng mỏ. Phiá nam đảo có vườn cao su đã bị bỏ hoang. Hải sản thì biển đầy cá và nước mắn nổi tiếng ai cũng biết. Ngoài ra, hồ tiêu cũng đứng hàng đầu, quan trọng không kém. Anh đã theo rõi và làm thống kê, một năm Phú Quốc xuất đảo khoảng trên 300 tấn, đứng đầu toàn quốc, gấp ba lần Bà Rịa, đứng thứ nhì. Anh cũng đã có dịp nếm thử tiêu cứt chồn và tiêu ngâm dấm để đưa thêm cay khi ngồi nhậu khô thiều hay mực nướng.
Điều lôi thôi nhất là tất cả các vườn tiêu lại nằm trong các vùng hoàn toàn không kiểm soát được. Bên ngoài thì Việt cộng tha hồ mà thu thuế. Bên trong thì mấy chú Ba Tàu nắm hết quyền thu mua, y như cách mua lúa non cuả miền Nam. Họ cho chủ vườn tiêu vay mượn đủ thứ, không những tiền mà còn gạo, vải, nhu yếu phẩm và các dụng cụ làm rẫy. Nhiều khi họ còn cố tình cho vay thêm để buộc chặt chủ vườn tiêu vào. Từ năm này qua năm khác gỡ không ra nổi. Họ lời đủ cách, lời lúc mua tiêu, lúc bán tiêu, lại lời lúc bán các hàng hoá ra.
Sau này, anh điều tra và được biết thêm, chính số vốn khổng lồ được xuất ra từ Hồng Kông cho Chợ Lớn và Chợ Lớn cho Phú Quốc. Hồ tiêu dĩ nhiên phải chạy ngược lại theo đường trên. Cách cho vay lại rất dễ dàng, chẳng cần một văn kiện , giấy tờ, lăn tay hay thị thực chữ ký. Nhiều khi chỉ cần nói vào băng thu thanh làm bằng, khiến không một Hợp Tác Xã nào cuả chính phủ có thể đứng vững nổi.
Các chủ vườn tiêu nợ một chủ nợ suốt đời. Một vài người cố phá cái vòng cương tỏa đó, tự mang tiêu về Saigon bán. Khuân tiêu xuống tàu vào Rạch Giá, khuân ra xe từ Rạch giá về Saigon. Tiền xe, tiền ăn, tiền trọ kham không nổi. Bán sỉ thì bị Ba Tàu dìm giá, mà bán lẻ thì không biết phải chờ đến bao giờ bán mới hết. Cho nên, tất cả đều nằm quy phục.
Nhưng dầu sao, đời sống của họ cũng vẫn no đủ dễ dàng hơn những nông dân trồng các hoa màu khác, khiến cho chẳng mấy ai chịu trồng luá cả. Thành thử 95% gạo trên đảo đều phải nhập từ Rạch Giá. Quận đã phải áp dụng cách phân phối gạo theo chế độ khẩu phần. Cách này đã giúp quận kiểm soát được nhiều vấn đề. Trước hết là vấn đề dân số, nhân khẩu của từng gia đình, những người muốn đến đảo cư ngụ, dân số trong từng xóm trong các ấp chiến lược và các vùng không kiểm soát được nếu họ muốn có hộ khẩu. Nhất là không có thừa gạo để nuôi du kích.
Cách này còn giúp cho quận kiểm soát được các nhà buôn gạo tránh cảnh đầu cơ. Giá gạo luôn luôn được một ủy ban ấn định, nhà buôn không thể tự ý tăng giá một cách ngang xương. Những ai muốn có môn bài bán gạo, phải ưng thuận một điều kiện là luôn luôn phải có một số gạo tồn kho ít nhất là một tháng bảo đảm thường trực được chỉ định, để phòng ngừa sự thiếu gạo trên đảo. Đã có một lần, biển động gần hai tháng trời, tầu chở gạo nằm chờ ở An Thới, phiá nam đảo không thể nào vào được cửa Dương Đông được. Các đường bộ đều bị cắt, nếu di chuyển thì chỉ làm mồi cho du kích. Gạo gần hết, cả quận nhao nhao, sắp phải cầu cứu chuyển gạo bằng đường hàng không thì biển yên lại.
Lợi dụng các yếu tố trên, kế hoạch bao vây kinh tế đã được nghiên cứu và đem ra tiến hành. Kế hoạch lại phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trên đảo, nhất là với các lực lượng hải quân và hải thuyền tuần phòng duyên hải. Nhiều vùng biển bị phong tỏa, ghe thuyền chỉ được cặp tại những bến đã được chỉ định, nếu trái lệnh có thể bị bắn chìm. Các cửa ấp chiến lược được kiểm soát nghiêm ngặt, ai đi ra ngoài ấp làm rẫy chỉ được mang theo đủ phần ăn trong ngày, không thể thừa dành cho người khác. Thực hiện kế hoạch này phải kiên nhẫn, hiệu quả chỉ đem lại sau ít nhất là trong vòng sáu tháng đến một năm.
*
Thời gian anh ở đảo có lẽ cũng khá lâu, bạn bè thường ngạc nhiên không thấy anh nhúc nhích xin đổi về đất liền. Có lẽ anh đã tạo cho anh huyền thoại của hòn đảo, và chính huyền thoại này đã giữ anh lại. Thật ra, anh nghĩ nếu cố xin được thuyên chuyển mà lại phải về các quận khác thì ở lại còn hơn, mà về tỉnh thì anh lại chán ngấy cái cảnh thư lại, nhàm chán...
Sau này, anh nhận làm Trung Gian Ngân Khố nên hàng tháng lại có dịp trở về đất liền để lãnh tiền ra chi cho các ngân phiếu trên đảo. Có khi thay vì vào Rạch Giá, anh lại tìm cớ về lãnh tiền thẳng tại Ngân Khố Saigon. Nhiều người cũng mượn dịp xin đi cùng hộ tống, súng ống lỉnh kỉnh để tránh du đãng cướp giật. Nhiều khi không muốn đi mà vẫn cứ phải đi, vì mỗi lần đi như thế bao nhiêu tiền lương của anh trong túi, anh cùng bạn tiêu hết sạch trước khi quay về đảo.
Lần nào ra máy bay về đất liền, anh cũng gần như phải đi trốn con chó Tino của anh. Nó là giống chó Phú Quốc, lông đen sát vào mình, có một đường xoáy chạy dài dọc sống lưng, rất khôn và săn rất giỏi. Nghe nói chó Phú Quốc đã được ghi trong một cuốn tự điển quốc tế. Khi anh rời ra trụ sở quận mới, một người dân đem con chó đó cho anh, vì ở đó canh gác quá sơ sài. Việt Cộng có thể đột kích từ ngã biển lên bất cứ lúc nào vì không có đồn canh ở phía đó. Sau này anh còn nuôi thêm một bầy ngỗng, hơn chục con mua từ Rạch Gía về. Ngỗng rất thính, thấy động là la quàng quạc, và thường hay tấn công người lạ. Cỏ trong quận không đủ, thường phải mua thêm lúa cho ngỗng ăn. Lúa thì không có nhiều, lúc đắt mua không nổi, nên thư ký trong quận cứ dụ ăn dần mỗi khi thèm thịt, thiếu mồi. Sau khi anh rời đảo, quận bị xâm nhập từ ngả đó hai lần, có lần một Quận Trưởng bị tử thương.
Con Tino lúc nào cũng theo sát anh, anh ngồi ở đâu, nó nằm ngay dưới chân anh. Khi anh ngủ, nó nằm sát cạnh giường, không lúc nào rời. Lần nào ra quán ăn hủ tíu, Cù Đe cũng cho nó một tô xương với bạc nhạc đày ụ. Ai mà lạ, đi đứng lấm lét là nó gầm gừ xua ra xa. Dân đến quận không đi bằng cửa chính, cứ thập thò ở cửa, nó đuổi cho kỳ được ra khỏi quận, nếu không có ai la cản. Mỗi lần Cha Cung từ An Thới lên, áo Linh Mục lòe xòe, đến thăm quận là thư ký cứ phải canh chừng vì sợ nó cắn rách áo của Cha.
Nhiều lần, anh đã lên ngồi ở máy bay chờ cất cánh, không hiểu con Tino tìm cách nào nhảy lọt được lên, khiến mấy cô chiêu đãi hàng không la oai oái. Cô Mai lúc nào cũng làm vẻ xa cách và thường chê đường bay này là Air Nước Mắm. Chắc đã có lần cô gặp phải tai nạn nước mắm bị bể trong chuyến bay. Cô Mai sau này thành vợ của Thiếu Tướng Kỳ. Riêng cô Thoại thì vui vẻ, dễ chuyện trò, thông cảm cho những dân ra làm việc trên đảo. Anh lại phải đi xuống để nó theo, và anh thường là người lên sau chót hết. Những ngày vắng anh, nó chạy sục sạo đi tìm những nơi mà anh thường đến. Lúc nó chạy ngang qua quán Cù Đe, ông ta đem tô xương ra, nhưng nó chẳng thèm ăn và bỏ chạy đi. Khi anh di chuyển vào Rạch Giá, anh đem nó theo. Một lần về Saigon công tác, Thiếu Úy Mạo trông giùm và đem nó đi theo hành quân, con Tino của anh đã bị lạc mất. Anh trở lại tỉnh, không có nó, buồn thẫn thờ mất bao nhiêu tháng trời...
*
Saigon lúc đó rối mù chính trị. Hàng ngày các sư và phật tử xuống đường liên miên chống lại chế độ Ngô Đình Diệm. Đi đâu cũng thấy dây kẽm gai chắn đường và Cảnh Sát Dã Chiến rằn ri lúc nào cũng lăm le bắn lựu đạn cay vào đám đông. Bạn bè anh ở Saigon cũng chẳng còn lại mấy người, phần đông đã phải nhập ngũ. Một hôm, ngồi một mình tại quán Givral, một người bạn đi ngang qua, kéo anh đến tham dự một buổi họp. Địa điểm có tính cách kín, vì sợ mật vụ và công an rình rập. Đến đó, đã thấy một số đông sinh viên và học sinh, và một lãnh tụ của họ đang hùng hồn đả kích chính phủ, phản đối các cuộc bắt bớ giam cầm trái phép, và đòi hỏi phải thực thi các quyền tự do căn bản. Người bạn nhìn anh có ý hỏi xem có ý kiến gì không. Anh nhìn lại người bạn bỗng nhớ ngay đến những ngày mới di cư từ Bắc vào Nam, chính anh ta và anh đã theo các đàn anh hội họp ngày đêm bàn truyện truất phế Bảo Đại, suy tôn Ngô Đình Diệm, đuổi thực dân Pháp về nước. Sau đó lại hùa nhau đi phá khách sạn Majestic và Trần Hưng Đạo đuổi phái đoàn hiệp thương về Bắc. Nay anh ta lại dẫn các đàn em lao vào một cuộc tranh đấu khác.
Sau buổi họp, anh không có dịp nói một lời nào với bạn. Hai người chia tay nhau, bạn anh ở lại trong cảnh rối mù của thời cuộc, còn anh về lại một nơi xung quanh chỉ thấy dân quê nghèo nàn, và Quốc Cộng vẫn thù nghịch, ngày ngày vẫn giết hại lẫn nhau. Anh mong bạn tìm ra lối thoát.
Anh trở lại đảo, sống lại cuộc đời tự do, phóng khoáng của biển cả và của núi rừng. Vẫn còn có những buổi chiều thả bộ dọc theo bãi biển từ Dinh Cậu xuống khách sạn Sơn Hải, ngắm hoàng hôn và nhìn mặt trời tròn đỏ ửng lặn dần xuống biển. Thỉnh thoảng, Đại Úy Minh, Hạm Trưởng là anh em với một ông Bác Sĩ đối lập chống chính phủ, sau những chuyến hải hành, thường hay neo tàu ở Dương Đông lên thăm quận. Anh ta thường chiếm giường của anh, và thừ người nằm đọc mấy quyển truyện tiếng Pháp loại bỏ túi mà anh để đầu giường. Đôi lúc, Đại Úy Minh thổ lộ cho biết: ’’Ông Diệm cho an ninh theo rõi moa sát nút, chỉ sợ moa mang tàu sang Cam Bốt’’.
Chẳng bao lâu, hai anh em Tổng Thống Diệm bị thảm sát, chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ, chính phủ quân nhân lên cầm quyền. Đại Úy Thanh, Quận Trưởng bị gọi ra phi trường, triệu hồi tức tốc về Bộ Tư Lệnh Hải Quân, không kịp về quận bàn giao lại mọi việc, vì có liên hệ họ hàng với Tổng Thống Diệm. Một vài vị nhân hào thân sĩ có quen biết với Tướng Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng vội chạy lên quận yêu cầu tập họp mít tinh và gửi kiến nghị gấp về Saigon triệt để ủng hộ cách mạng. Đang mít tinh, hò hét ủng hộ, đả đảo thì Trung Úy Võ, Phó Duyên Khu 4 từ căn cứ An Thới lên báo cho anh biết trung đội nghĩa quân Công Giáo đã trả lại võ khí, không phòng thủ nữa, và giục anh phải xuống ngay nói với họ cầm súng trở lại. Căn cứ Duyên Khu 4 chỉ huy các lực lượng Hải Thuyền từ sông Ông Đốc, Cà Mau trải dài đến vịnh Thái Lan, mà không có một lực lượng diện địa phòng thủ, vòng ngoài chỉ trông cậy vào trung đội nghĩa quân nói trên. Họ đều là người Công Giáo, Ba Làng vượt biển vào Nam năm 1954, chống Cộng có hạng. Sau buổi mít tinh, anh cùng Trung Úy Võ xuống ghe chủ lực vượt sóng đi An Thới. Đến nơi, xin vào gặp Cha Cung, quản nhiệm địa phận. Chắc cũng dễ hiểu, chẳng cần phải dùng tài thuyết phục, Cha cũng thừa biết vì ông Diệm mà bỏ súng nếu Việt Cộng nó đánh thì chết cả đám. Dân An Thới, Công Giáo Ba Làng chỉ cần dằn mặt quân đội đã giết vị lãnh đạo của họ.
*
Mấy tháng trời, đảo không có Quận Trưởng. Ở Saigon thì các Tướng lãnh không thuận nhau, chỉnh lý cứ xảy ra hoài hoài. Nhân hào thân sĩ cũng theo cái nhịp đó, chạy lên quận điện kiến nghị về ủng hộ tướng lãnh mới lên nắm quyền. Có lần, Trưởng Chi Thông Tin hấp tấp chạy lên quận báo tin, Tướng Vùng 4 chống lại Saigon, đang dùng đài Ba Xuyên bài bác chính phủ, mà quận thì mỗi chiều đều trực tiếp truyền thanh đài này cho dân chúng nghe. Ông ta hỏi nên xử trí ra sao, không biết theo bên nào và chống bên nào. Anh liền bảo ông ta loan báo vì lý do trục trặc kỹ thuật, nên chương trình phát thanh phải ngưng lại trong phút chốc. Nhưng rồi cũng phải hai ba hôm, nghe ngóng tình hình tạm yên mới cho phát thanh trở lại.
Ít lâu sau, Thiếu Tá Châu, bên Hải Quân được cử ra làm Quận Trưởng. Ông ta rất ghét cờ bạc và thích chơi trò trị dân như ngày trước quan huyện phạt đám dân đen. Cứ mỗi Thứ Ba, mở sổ số là ông cho lính đi rình bắt bọn đánh số đuôi. Chỉ cần bắt được cuốn sổ là bao nhiêu tên người chơi đều nằm trong đó, lính chỉ cần đến tóm giải lên quận. Mọi lần thì anh chỉ bắt họ làm cỏ vê trên các con đường trong quận, nhưng Thiếu Tá Châu thì lại bắt mỗi người nằm úp trên ghế dài, lấy roi mây dang tay ra quất mỗi người mười roi. Nhiều chị mặc quần mỏng bị roi quắn mông, khóc như cha chết. Nhưng dân vẫn không chừa, Thứ Ba nào từng đám vẫn bị giải lên quận. Đánh mãi, nhiều khi mỏi cả tay, gãy cả roi, nên ông phải dự trữ từng bó roi mây trong quận. Nhiều lần, ông ta đưa roi bảo anh thay ông ra tay, nhưng anh từ chối. Ông sai lính, thì họ đánh nương tay, ông không chịu. Có những con bạc có kinh nghiệm, thường mặc quần có hai túi sau và để hai chiếc bóp dày cộm sau mông, nhưng chỉ vài lần là Thiếu Tá Châu biết ý, bắt moi bóp ra trước khi nằm xuống ghế.
Một hôm, Thiếu Tá Châu vào phòng đưa cho anh tờ báo, miệng chửi thề bảo anh đọc và nhờ tìm cách trả lời. Anh cầm tờ báo xem, ông ta không bị dân thưa vì tội dùng roi đánh dân mà lại bị thưa về tội bỏ dân đói, do kế hoạch bao vây kinh tế được thực hiện trước ngày ông đến đảo nhận chức. Anh còn nhớ bài báo đó được đăng trong mục đóng khung Quan Điểm của một tờ nhật báo do hai nhà cách mạng lão thành Nam và Bắc, là cụ Bạch Văn Mùi và cụ Nguyễn Thế Truyền chủ trương. Cụ Truyền còn nổi tiếng thêm vì có vợ là công chúa người Bỉ. Đối với các bậc trưởng thượng như thế, anh chỉ còn biết kính trọng. Anh bàn với Thiếu Tá Châu là anh sẽ viết một lá thư mời hai cụ ra chơi đảo, nghiên cứu tình hình và dạy bảo cho kẻ hậu sinh nên làm những gì, vì hai cụ chắc có nhiều kinh nghiệm với Cộng Sản. Thư gửi đi đã lâu mà không thấy hồi âm gì. Thiếu Tá Châu cười và nói với anh, chắc hai cụ sợ bọn con cháu chơi xỏ, khi hai cụ ra đây lại xúi dân vệ bắn sẻ trêu chọc.
Sau này, ba người Đại Úy Minh, Đại Úy Thanh và Thiếu Tá Châu đều trở thành Đề Đốc giữ những chức vụ quan trọng trong Hải Quân.
Anh lại nghĩ đến, trong chiến tranh, Cộng Sản lấy nông thôn làm bàn đạp, cấp quận được coi như một tuyến đầu sống còn của người Quốc Gia. Những cán bộ hành chánh trẻ, được huấn luyện cấp Đại Học và đưa về mong làm thay đổi một phần nào bộ mặt của nông thôn, và củng cố chính nghĩa. Hành trang chữ nghĩa họ đem theo hầu hết là những lý thuyết cao siêu từ các giảng đường Đại Học, những tư tưởng quốc tế xa vời được những giáo sư khoa bảng truyền thụ mà hầu hết các bậc thầy này cũng như các bậc cách mạng lão thành Quốc Gia đã không có những kinh nghiệm sống hay những thời gian đặc biệt nghiên cứu về nông thôn. Sinh viên mới ra trường đã phải tự mình lần mò học hỏi những điều xảy ra hàng ngày, và điều chỉnh giữa lý thuyết và hoàn cảnh thực tế. Khi tạm đủ lông cánh, thì họ lại tìm cách bay đi tìm những phương trời an lạc hơn, để lại nông thôn cho những đàn em tay mơ mới ra ràng loay hoay như những ngày mà các khóa đàn anh mới đến.
Có một lần, anh từ quận trở về Saigon công tác, và có dịp thăm lại trường cũ. Lúc anh học ở trường, Giáo sư Vũ Quốc Thông là Viện Trưởng, nay là Giáo sư Nguyễn Văn Bông thay thế. Một sự tình cờ anh gặp Giáo sư Bông tại hành lang và ngẫu nhiên anh ngỏ ý muốn thưa một vài câu chuyện của một sinh viên ra trường làm việc ở cấp quận. Giáo sư vui vẻ dẫn anh trở lại văn phòng để nghe chuyện. Câu chuyện của anh là những mối quan tâm kể trên. Giáo sư im lặng ngồi nghe, không nói. Trước khi từ biệt để về quận, Giáo sư đưa tay ra bắt, anh nhìn cặp kính trắng dày cộm và trên vầng trán hiện rõ ràng đầy nét ưu tư. Anh chắc rằng Giáo sư cũng đã được nghe những lời trình bày như của anh nhiều lần. Ít lâu sau, anh nghe được tin Giáo sư bị ám sát chết...
Còn tiếp
Nguyễn Công Khanh