User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
muitraunam1
 
IV. Giấc Mơ Hoang Tưởng Tan Theo Con Trâu Rừng
 
Phú Quốc như là một địa điểm du lịch lạ, các tướng lãnh và chức sắc chính quyền trung ương hay ghé qua dù chỉ trong chốc lát. Cứ mỗi lần như thế, nhân viên quận rất hiếu khách, theo một thông lệ đã có từ lâu, thường đem nước mắm và cá khô thiều ra tận sân bay để tặng cả phái đoàn. Tổng Thống Diệm và tùy tùng có ra thăm một lần. Tướng Thiệu, khi chỉ huy Vùng 4 và bà vợ cũng có ghé thăm. Sau đó, Tướng Dương Văn Đức có lần ra hò hét quận bắt lính, náo loạn cả đảo, khiến bao nhiêu gia đình gặp cảnh ly tan. Một lần, một chiếc máy bay nhỏ từ đâu đến lượn mấy vòng trên văn phòng quận báo hiệu, và sau đó hạ cánh xuống phi trường Dương Đông. Quận phải hộc tốc mang xe ra đón, thì ra là phái đoàn Tướng Westmoreland đến mà không báo trước. Sau khi nghe thuyết trình xong, phái đoàn trở lại sân bay, anh đã thấy mấy người thư ký quận đã sẵn sàng đứng cạnh máy bay, với mấy chai nước mắm để tặng. Thấy anh ngần ngại, thì một sĩ quan tùy tùng nói ngay: ’’Ô, Whisky Việt Nam, chúng tôi thích lắm!’’. Tướng Westmoreland cười, cám ơn và giơ tay bắt tay mọi người. Lúc đứng nhìn chiếc máy bay mất hút sau dặng núi, anh mới nhớ ra, có một vài Cố Vấn Mỹ đến đảo, thấy các chai nước mắm nhĩ vuông, óng ánh như mấy chai Wisky mèo đen, ngửi lại thấy thơm một cách đặc biệt, đã khiến họ nếm một cách say sưa.
 
Lúc đó đến lượt Tướng Khánh lên cầm quyền, ông nảy ra ý kiến biến Phú Quốc thành một trung tâm du lịch, giải trí cho lính Mỹ khi đi phép, để thâu thêm ngoại tệ, thay vì họ mang đô la đi tiêu xài ở Hồng Kông hay Thái Lan... Điều đầu tiên là phải nâng Phú Quốc lên hàng tỉnh, để có đủ cơ sở và nhân sự điều hành các chương trình. Anh được chỉ thị lập một dự án sơ khởi thành lập Tỉnh Phú Quốc. Trên đảo đã có gần đầy đủ các cơ sở hành chánh và chuyên môn, mà một số ở cấp ty, trực thuộc thẳng trung ương như một số tỉnh nhỏ vùng cao nguyên, vì thế chi phí phát triển không đến nỗi tốn kém lắm.
 
Đây là một dịp đầu óc anh bay bổng, nghĩ lại ngày nào tìm lại được thiên đường đã mất. Anh tưởng tượng ra một con đường vòng ven đảo, qua những bãi biển nhỏ mà bao lâu không có dấu chân người. Một cái đê ngoài cửa biển ngăn sóng để các tàu thuyền ra vào rạch Dương Đông cho dễ dàng, và cũng là chỗ để các du thuyền và nơi trượt nước cho du khách. Quận cần có một họa đồ thiết kế thành một thành phố du lịch, ít nhất cũng phải có tính cách quốc tế. Những rừng san hô phía Nam đảo cần được bảo vệ cho những khách muốn thám hiểm vùng biển nhiệt đới. Cần có cả các du thuyền cho du khách đi câu và các chuyên viên hướng dẫn môn săn cá dưới biển.
 
Anh chắc rằng Tướng Khánh cũng đã lôi cuốn được một số tư bản đầu tư đủ để phát triển hạ tầng cơ sở, xây cất các khách sạn, các trung tâm giải trí và thực hiện một sân golf, môn thể thao mà người Mỹ ưa thích. Tướng Khánh cũng thể nào quên được vấn đề bình định hòn đảo. An ninh phải là một trăm phần trăm, nếu không chỉ một sớm một chiều, tất cả công trình sẽ thành mây khói hết. Ông dự định đưa mấy ngàn dân Nùng chống Cộng ra định cư. Họ sẽ được cung cấp tất cả phương tiện về đời sống trong mấy năm đầu, và một số sẽ được tuyển mộ thành lập những đơn vị để lùng diệt du kích địa phương.
 
Chẳng bao lâu, anh nhận được công điện chuẩn bị đón tiếp và lập một chương trình thăm viếng theo lời yêu cầu của các lãnh tụ Nùng. Anh nhường cho họ căn phòng, và tối nào cũng ngửi thấy mùi thuốc phiện thơm lừng văn phòng quận. Họ mang theo một số súng lạ, và bảo anh muốn lấy khẩu nào tùy ý. Anh chọn một khẩu súng sáu ngắn nòng có thể dấu kín trong người. Hôm sau, anh đưa họ đi vòng đảo để quan sát bằng tầu tuần phòng của quan thuế. Nếu không ghé đâu, cũng phải mất một ngày mới trở về quận được. Hồi đó, anh thỉnh thoảng nghe đài Nam Vang, ông Hoàng Shianouk cứ mỗi Thứ Bảy thường trực tiếp nói chuyện truyền thanh, lúc bằng tiếng Miên, lúc bằng tiếng Pháp, lúc lại bằng tiếng Anh. Nhiều lúc ông gay gắt lên án Việt Nam xâm lăng, to tiếng đòi lại đảo Phú Quốc và dọa sẽ tấn công bằng mọi lực lượng, vì thế anh rất e ngại mỗi lần phải đi vòng lên phiá Bắc đảo, len giữa eo biển nhỏ gần kề với đất Miên, hải quân Cam Bốt có thể áp đảo kéo tàu về lấy cớ là vi phạm hải phận.
 
*
Sau khi tiễn họ về, anh lại phải sang Hàm Ninh, phía Đông đảo để giúp Hội Đồng Xã tổ chức lại một số vấn đề hành chánh, tài chánh và nhất là định lại thuế má. Xã quá nhỏ, hành thâu rất là khó khăn, thành thử chỉ đủ trả lương cho một mình xã trưởng. Ông ta là một ông già, có chút chữ nghĩa, tính toán, hàng ngày lại phải kiêm luôn chức giáo làng dạy một đám trẻ nhỏ. Giáo viên cử đến tháng trước thì tháng sau lấy cớ đau ốm về đất liền rồi ở luôn không thấy ra nữa. Nếu tăng thuế để đủ chi phí điều hành xã thì chắc dân sẽ bỏ đi hết, chỉ còn le que ít lính trong đồn, rồi chẳng bao lâu đồn sẽ bị triệt hạ vì lý do này hay lý do khác, và quận sẽ mất thêm một xã nữa. Thành thử, mọi chuyện cứ để lê lết như thường lệ.
 
Không còn chuyện gì làm, anh gọi về quận để cho thuyền đến đón, thì trời nổi gió, mây đen ngùn ngụt phủ đầy trời. Biển động sẫm lại và sóng đánh vào mấy chiếc ghe cắm ngoài xa, dập vùi như muốn nhận chìm xuống biển. Anh nghĩ ít nhất cũng phải một tuần nữa mới có thể trở về quận được. Mấy quyển sách anh đem theo cũng vừa đọc hết, anh lang thang đi từng nhà, nói chuyện với các ông già bà cả. Họ kể lại những chuyện nghe như chuyện ngày xưa tự thuở bán khai. Nói chuyện với các trẻ thơ, thấy chúng vô tội, và thấy thương vô vàn khi nghĩ đến tương lai của chúng. Có lúc, anh trầm ngâm ngồi nhìn và nghe chuyện giữa một cô gái đảo đương thì và một anh lính trẻ trong đồn, anh chưa tưởng tượng được giấc mơ của họ như thế nào ở chốn tận cùng của trời đất này.
 
Một buổi trưa, anh đang nằm lơ mơ trên võng sau nhà của một người thợ săn, anh bỗng choàng dậy vì thấy một cái gì ẩn hiện trên đống cát gần hàng rào thưa. Anh vội chạy đến, lấy tay gạt cát và khênh lên một cái sọ trâu trắng hếu với hai cặp sừng cùn sơ mà cái nào cũng chỉ còn một nửa. Anh lệ khệ bưng vào nhà hỏi chuyện. Họ cho biết, hơn tháng trước Thiếu Úy Bình cùng mấy người trong ấp đi săn, đột nhiên gặp con trâu rừng này. Lúc nó trông thấy Thiếu Úy Bình, thì chỉ còn cách xa vào khoảng ba chục thước, nó đứng yên, hai chân cào đất lấy thế tấn công. Mọi người thấy thế dãn ra, chỉ còn Thiếu Úy Bình quỳ xuống sẵn sàng nạp đạn. Sau một lúc nghênh nhau, con trâu rừng bỗng lao về phía Thiếu Úy Bình, mấy viên đạn nổ kịp, theo đà con trâu ngã gục trước mặt Thiếu Úy Bình... Anh không còn muốn nghe thấy gì nữa, vội chạy lên đồn sinh sự với Thiếu Úy Bình, thì lính trong đồn cho biết, Thiếu Úy Bình đi săn bị ngã từ trên cây xuống, gãy xương sống, đã phải đưa vào bệnh viện tỉnh mấy tuần trước rồi.
 
Anh thẫn thờ đi ra khỏi đồn, tưởng tượng đến phút cuối cùng của con trâu rừng trên đảo đã gục ngã. Tưởng tượng đến cả đám trâu rừng của bà Kim Giao đem ra hơn hai trăm năm trước nay không còn nữa. Tưởng tượng đến cái dấu vết cuối cùng của một thiên đường hoang tưởng đã mất mà anh đang tìm, như bỗng chốc không bao giờ còn tìm thấy lại. Anh trở về nhìn lại cái sọ trâu với cặp sừng, lấy tay phủi hết cát trong cặp mắt sâu hoắm, tưởng như bao nhiêu huyền thoại vẫn còn chứa chất trong đó. Anh thấy đoàn thuyền của Nguyễn Huệ đang lùng đuổi Nguyễn Ánh, thấy con cá voi đang cố sức đỡ thuyền cho Nguyễn Ánh khỏi bị lật trong cơn giông bão, thấy một đàn cá lạ đến dâng mình cho Nguyễn Ánh trong cơn đói lả. Thấy hình ảnh của nhà truyền giáo từ một xứ xa lạ nào đó đang nằm thở những hơi cuối cùng trong ngôi giáo đường ven biển, chờ Chúa đến đón. Thấy Nguyễn Trung Trực đang treo đứa con nhỏ của mình trên nhành cây cho dân trong trong ấp nuôi để cố thoát khỏi cuộc vây bắt của giặc Pháp. Thấy cả đám tù binh gầy guộc đang lê lết san bằng đất làm phi trường Cửa Cạn trong Thế Chiến Thứ Hai, thấy lại từng đoàn máy bay Nhật lên xuống bụi mù cả một vùng, thấy đám lính Nhật bắn súng vang trời ăn mừng khi Tân Gia Ba thất thủ. Thấy lại cả đám tàn quân Quốc Dân Đảng bị Hồng Quân Mao Trạch Đông tràn qua sông Dương Tử xua ra khỏi Trung Hoa đang mình trần chặt cây dựng lều tạm trú trên đảo. Thấy hình ảnh nghĩa trang của những Quốc Quân bỏ mình trên đảo mà mắt vẫn trông về cố quốc...
 
Anh lại thấy hình ảnh thư sinh mới ra trường của mình, một mình tay xách chiếc va-li đến đảo, tưởng như đang sống lại một phần đời của Gaugin đang đi tìm lại một thiên đường lỡ dở trong các họa phẩm vẽ cảnh rừng dừa ven biển, với các chàng trai lực đang đánh những tiếng trống bập bùng, với những cô gái mình trần đa tình đang cầm vòng hoa đón khách lạ. Thấy lại hình ảnh lang thang của mình như một Gary Cooper sau những ngày phiêu bạt trở lại đảo như trong phim ‘’Retour au paradis’’. Thấy lại hình ảnh của mình ngồi trên mũi thuyền những ngày rong ruổi trên biển, nghe sóng vỗ và nhìn vào dọc đảo xanh để đến những ấp lạ như sống trong phim của thời ‘’Bảy chàng hiệp sĩ Nhật’’...
 
Mấy hôm sau, biển lặng, anh về tới quận. Trong đống thư từ ứ đọng từ hai tuần trước, anh nhận được giấy thuyên chuyển về tỉnh. Người thay thế anh là người khóa dưới, đang tòng sự tại Bộ Nội Vụ. Nhân viên trong quận đến phàn nàn với anh, họ cứ ngỡ anh sẽ ở lại làm xong dự án thành lập tỉnh. Anh thu xếp chờ bàn giao, nhưng chờ mãi không thấy người đồng môn ra thay. Lúc đó, Tỉnh Trưởng là Thiếu Tá Thụy, gọi cho anh và bảo có mấy chức vụ còn trống trong tỉnh, anh muốn chọn chức nào tùy ý. Ông cũng khuyên anh nên về dần, nếu ở mãi chỗ tận cùng đó người ta sẽ dễ quên. Riêng anh, anh thấy chẳng còn cớ gì có thể giữ anh ở lại đảo nữa.
 
Vừa về tỉnh không được bao lâu, anh lại được Tỉnh Trưởng gọi đến nhờ ra đảo tổ chức tiếp đãi phái đoàn Tướng Khánh. Hôm ông đến có hai máy bay, tùy tùng khá đông, có thêm Tướng Công Binh, bên dân sự có Thủ Tướng Viên và một hai Thứ Trưởng. Sau khi hội họp tại quận, duyệt xét kế hoạch lập tỉnh lần chót, phái đoàn dân sự đi thị sát các cơ sở hiện hữu, sau đó sẽ ra máy bay về Saigon. Riêng phái đoàn các tướng lãnh ra chiến hạm xuống đảo Hòn Thơm để quan sát phía Nam đảo. Anh được chỉ thị tháp tùng họ. Lúc đứng trên boong tàu, nhìn lá cờ vàng ba sọc và lá cờ Tướng ba sao trên đỉnh chiến hạm, nền trời xanh, mây trắng lững lờ trôi, mặt biển lặng, nước trong và gió chỉ hây hây, anh thấy một ngày quá đẹp. Anh nhìn vào đảo, tưởng tượng đến một ngày nào hòn đảo sẽ sống như giấc mơ mà mình đã mơ.
 
Khi đến Hòn Thơm, hai ghe chủ lực đã chờ sẵn sàng ở đó để đưa mọi người vào đảo. Anh đã đến Hòn Thơm vài lần, trên đảo cây cối xanh tươi, những bãi biển nhỏ cát vàng lóng lánh, những ghềnh đá sóng vỗ tung bọt trắng, đêm trăng ở đó thật là huyền ảo. Ven biển là những rừng san hô, cá nhiệt đới đủ màu lập lờ bơi dưới nước. Lúc mọi người đang dùng bữa trưa, thì một tin khẩn cấp từ chiến hạm báo cáo qua máy truyền tin là Việt Cộng dùng súng cối 81 pháo vào phi trường, định phá máy bay và tấn công vào phái đoàn dân sự đang chờ tại trạm hàng không. Tướng Khánh yêu cầu mọi người trở lại ngay chiến hạm và ra lệnh tàu quay về Dương Đông. Khi chiến hạm vừa nằm trên đường ngang với phi trường, hàng loạt trọng pháo được phóng ra nã vào sâu trong đảo. Tiếng nổ vang vọng lại, một vài cột khói bốc cao, anh có cảm tưởng hào hứng như đang đứng trước giờ đổ bộ trong cuộc Thế Chiến Thứ Hai. Báo cáo của lực lượng địa phương cho biết, đã đẩy được Việt Cộng ra ngoài hàng rào phi trường, máy bay bị một số đạn nhỏ, không biết hư hỏng ra sao. Phía ta, hai Địa Phương Quân bị thương nhẹ và một Nghĩa Quân bị thương nặng.
 
Anh cùng với một bác sĩ Quân Y xuống ghe ra đón vào đảo để săn sóc mấy binh sĩ bị thương. Sau khi băng bó và cho thuốc xong, ông ta liên lạc với Tướng Khánh, cho biết cần phải di chuyển nghĩa quân về bệnh viện tỉnh gấp để giải phẫu gấp, nếu chậm sẽ không qua khỏi đêm nay. Trời tối dần, tiếng súng đã ngưng, nhưng tình hình vẫn còn căng thẳng, hồi hộp. Vị bác sĩ phải trở lại chiến hạm và đưa cho anh chiếc máy truyền tin nhỏ để liên lạc. Anh tiễn ông ta ra ghe rồi trở về bệnh xá thăm lại mấy binh sĩ bị thương. Bà mẹ anh nghĩa quân vừa thấy anh, ôm choàng lấy anh khóc nức nở, van nài cố cứu sống đứa con. Anh không biết làm gì hơn, cố đứng yên lấy tay vỗ về bà ta an ủi để cơn đau đớn nguôi dần. Chợt có tín hiệu từ máy truyền tin, anh liền mở máy, từ chiến hạm báo cho anh chuẩn bị bãi đáp cho trực thăng tải thương. Anh lại nghe vọng qua máy, tiếng Tướng Khánh gọi về Cần Thơ, ‘’Mặt Trời đây, Mặt Trời đây! Cho chuồn chuồn ra đón mấy đứa con tôi bị thương về tỉnh ngay!’’ Anh liền bảo mọi người đem đến một số đèn để làm dấu cho bãi đáp. Nghĩ đến Tướng Khánh, lo cho mấy đứa con của mình, ra lệnh bất chấp các điều kiện mà thấy thương ông. Trời tối mà biển thì rộng, đến bố chuồn chuồn cũng không dám mò ra. Quá nửa đêm, anh nghe tiếng khóc gào lên từ trong bệnh xá, lại một thằng con của ông vừa hi sinh...
 
Đêm đó, anh ngồi ở sân trước bệnh xá, không ngủ, nhìn lên trời máy bay thả hỏa châu liên tiếp sáng rực để bảo vệ hai chiếc máy bay còn lại ở phi trường. Anh được biết Tướng Kỳ cũng có mặt trong những chuyến bay đó để liên lạc với Tướng Khánh phía dưới. Sáng sớm hôm sau, một đại đội Dù được thả xuống truy lùng Việt Cộng, nhưng chúng đã trốn lủi vào một xó xỉnh nào đó từ lâu rồi. Anh chợt nhớ đến ít lâu nay, tình báo cho biết Việt Cộng trên đảo có súng cối 81, nhưng thám báo cố tìm mà không ra. Chúng đã dùng đúng lúc, dù không nhằm được đúng mục tiêu, nhưng đã làm dự án của Tướng Khánh cho hòn đảo tiêu tan...
 
*
Sau đó, anh về tỉnh Rạch Giá làm việc, rồi bỗng nhiên bị một trận sốt rét kéo dài mấy tháng trời. Chữa tại bệnh viện tỉnh mãi không xong, anh về Saigon và muốn ở lại luôn. Bác sĩ Tây ở Saint Paul chữa dai dẳng không hết, cuối cùng một người bạn thân đang học Y Khoa năm cuối, mát tay giúp anh khỏi bệnh.
 
Anh trở lại tỉnh, và làm một quyết định quan trọng nhất trong đời, là lập gia đình với người yêu. Nàng đang học ở Saigon, những ngày nghỉ hai người thường cùng nhau ngồi xe dọc quốc lộ 4, qua những đồng luá xanh rờn mênh mông, và dọc theo các kinh lạch chạy dài bên lộ. Những buổi trưa qua Bắc Mỹ Thuận, ngồi chờ trong quán, ăn những dĩa cơm với chim sẻ chiên giòn hay những con tôm rim đỏ ngậy. Những sạp mãng cầu căng nứt, vú sữa tròn bóng tưởng như tất cả màu mỡ của phù sa đồng bằng Cửu Long chan hòa trong đó. Nhớ nhất là những buổi chiều mưa, anh và nàng cùng ngồi bên nhau qua Bắc Vàm Cống, nhìn những giọt mưa rơi trên dòng sông rộng mịt mờ, vừa mới xa Saigon mà đã thấy nhớ lại Saigon ngay.
 
Anh đưa nàng ra thăm lại đảo, lúc cùng nàng đứng dưới gốc dừa trên bãi biển gần Dinh Cậu, nắng ấm, gió rất nhẹ và sóng vỗ thì thầm, anh nhìn ra biển rộng, an bình, nghĩ đến những giấc mơ ngày nào. Trong đó có giấc mơ, mua được một hòn đảo nhỏ để cùng nàng sống những ngày huyền ảo trên đó. Đột nhiên bao nhiêu kỷ niệm cũ quay lại, từ ngày đầu tiên anh xách va-li đến đảo và cuối cùng là hình ảnh cặp sừng trên cát của con trâu rừng cuối cùng trên đảo bị bắn hạ ở một ấp xa. Con trâu này là con cháu của bầy trâu mà bà Kim Giao đã đem ra đảo mấy trăm năm trước trong thời Tây Sơn, con trâu cuối cùng mà anh đã cố đi tìm như đi tìm một huyền thoại, thì nay không còn nữa, và ‘’Thiên đường đã mất’’ của anh đã mất thật rồi. Anh từ từ nắm lấy tay người yêu và nhìn vào mắt nàng, nàng mỉn cười với anh, anh kéo nàng cùng chạy ra biển, như vào một thiên đường mới hoang tưởng nào đó.
 
Chiến tranh ngày càng mãnh liệt, anh bị gọi nhập ngũ. Một sự tình cờ, vì nhu cầu anh được một bộ lớn thu nhận và được biệt phái làm việc ở đó. Anh tin rằng vận hạn cũ của mình đã hết, nay được ở lại Saigon với người mình yêu, xa hẳn những ngày lang bạt ở chốn tận cùng của trời đất...
 
*
Mãi tới năm 69, khi theo học trường Cao Đẳng Quốc Phòng, trong một chuyến du hành quan sát, anh mới có dịp trở lại Phú Quốc, nhưng chỉ đến được phía nam đảo để thăm trại tù binh An Thới. Trại trải dài, chứa hơn ba chục ngàn tù binh miền Bắc, và bốn tiểu đoàn Quân Cảnh canh giữ. Tiền của Mỹ nuôi lính Bắc Việt bị bắt dùng để trao đổi tù binh sau này. Hôm đó trong một phòng riêng, anh có dịp nói chuyện với một viên Thượng Úy, anh ta cũng sinh ở Hà Nội như anh, và bị bắt hai năm trước, trong một trận đánh trên vùng cao nguyên. Lúc rời khỏi phòng, anh bắt tay anh ta và chúc anh bình an, chóng được về với gia đình.
 
Lần cuối, tháng Tư gần tàn cuộc chiến năm 75, anh lại ra Phú Quốc để tham gia tổ chức trại tiếp cư cho những đồng bào di tản miền Trung mà tàu của họ không được phép vào Vũng Tàu hay Saigon vì sợ rối loạn. Lần này anh cũng chỉ đến được An Thới, trại tù binh đã bỏ trống hoang tàn, nay phải sửa lại để cho dân tị nạn tạm cư. Tối hôm đó, anh ngủ lại trại, đêm âm u và tiếng rừng ảo não không còn huyền hoặc như những ngày trước. Hôm sau, anh lội bộ theo đường mòn ra phi trường An Thới để đón máy bay về Saigon. Lúc đứng trên những vỉ sắt ở phi đạo, anh nhìn ra biển những xà lan đày người tị nạn, chật cứng hứng nắng gắt vẫn phải neo ngoài xa chờ Hải Quân thanh lọc. Bên trạm kiểm soát, xác mấy Thủy Quân Lục Chiến bị bắn nằm lẫn với cát, máu hòa loang lổ với nước biển, vì lợi dụng lúc hỗn loạn cướp bóc và hà hiếp dân tị nạn.
 
Anh lại nghĩ đến hòn đảo, sau khi anh rời bỏ, đã thành một hòn đảo của ngục tù. Từ trại tù binh lính miền Bắc, trước đó là trại Cửu Sừng giam những du đãng bất trị như trùm Đại Cathay và một bác sĩ miền Trung chống lại chính phủ. Nay là chỗ cho những kẻ tị nạn khốn cùng bị xua đuổi. Sau này, lại là trại cải tạo giam giữ những người thuộc chế độ cũ… Nhưng không hiểu sao, lúc nào khi anh nghĩ hòn đảo, anh vẫn luôn luôn mường tượng như một miền hoang tưởng huyền thoại nào đó
 
*
Bao nhiêu năm qua ở xứ ngưới, anh vẫn còn nhớ lại có những chiều trên đảo, anh đứng một mình trên đồi, nhìn biển rộng mênh mông, nhìn những đám mây bay lang thang trên nền trời xanh, nhìn những đám cỏ may theo gió thổi chạy vờn về cuối đảo, tự nhiên làm cho anh thấy mong nhớ một cái gì xa xôi. Mây và cỏ may thường làm gợi nhớ đến dĩ vãng. Anh chợt nghĩ không hiểu có còn dịp nào để quay lại hòn đảo này nữa hay không, nhưng mây và cỏ may thì dù đi đến một phương trời nào thì người ta vẫn thấy...
 
 
Nguyễn Công Khanh
 
 
 

Tìm các bài TRUYỆN DÀI khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com