
I. Đi Vào Miền Hoang Tưởng
Đầu Năm 1962, anh ra khỏi trường, tưởng rằng sẽ được kéo cái cuộc đời ký cóp an nhàn ở Saigon, trong các bộ, phủ như các khóa tốt nghiệp trước. Nhưng cũng trong thời gian đó, Cộng sản nằm vùng bắt đầu trỗi dậy, mở đầu bằng một trận tấn công đồn Dầu Tiếng và sau đó liên tiếp xẩy ra các cuộc phá rối ở nhiều nơi.
Tổng Thống Diệm, lúc đó đang đẩy mạnh chương trình lập ấp chiến lược, tin tưởng rằng sẽ tách rời được Cộng sản ra khỏi dân quê và phát triển được các phương diện kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế và an ninh trong các xã ấp mà dân quê từ bao nhiêu năm đã không được hưởng. Tống Thống Diệm hình như không tin tưởng ở những cấp chỉ huy địa phương chỉ có khả năng về quân sự hay chỉ có khả năng về hành chánh có thể thực hiện được cái chương trình toàn diện kể trên.
Trường Hành Chánh lúc đó trực thuộc Phủ Tổng Thống, vì thế đã chịu ảnh hưởng trực tiếp cái ý định trên. Sự xử dụng các sinh viên tốt nghiệp của khóa anh được đổi chiều một cách rõ rệt. Một nửa khóa được chọn để đưa vào làm việc cho ngành Trung Ương Tình Báo, một nửa khóa còn lại đợi ngày nhập quân trường để được huấn luyện thành sĩ quan và sau này sẽ đưa về địa phương phục vụ.
Tổng Thống Diệm lại cẩn thận và kỹ tính hơn, đã chọn quân trường Đồng Đế để Tướng Đỗ Cao Trí hết lòng ‘‘săn sóc’’ cho cẩn thận trong cái lò luyện thép của các khóa đào tạo sĩ quan hiện dịch.
Hồi đó, anh hay đọc những truyện gián điệp, nghĩ rằng một ngày nào mình sẽ được sống một cuộc đời lầm lì, bí mật, ly kỳ như những nhân vật trong truyện. Anh mong được vào ngành Tình Báo, và nhất là Tình Báo quốc ngoại. Vì thế khi chọn ngành tập sự trước khi tốt nghiệp, anh đã ghi danh vào ngành Cảnh Sát Công An và luận văn ra trường anh đã viết rất cẩn thận về đề tài ‘‘Tổ Chức Màng Lưới Tình Báo.’’
Anh đã không được chọn, không hiểu rằng cái đó là cái may hay là cái không may. Nhưng anh biết rằng, những người bạn của anh trong ngành Tình Báo đã phải hy sinh khép kín trong một đời sống kỷ luật, giới hạn và bảo mật tối đa của tổ chức.
Chiều cuối cùng ở Việt Nam, bao nhiêu sự run rủi đã đưa anh và gia đình lọt qua vòng dây kẽm gai dày đặc của hải quân để vào được bến Bạch Đằng. Bên ngoài, tiếng súng vọng từ ngả xa lộ nghe rõ mồn một. Đang loay hoay, bồn chồn chờ đợi không hiểu có thể kiếm thêm một dịp may nào nữa để cả một bầu đoàn thê tử có thể nhảy lên một chiến hạm ra khơi hay không, thì anh trông thấy một người bạn cùng khóa và gia đình đang hớt hải từ trụ sở của cơ quan Tình Báo lái xe cố len ra. Anh bèn gọi ngược lại:
- Đi đâu đấy?
Anh bạn vội vã đáp:
- Tao phải ra ngay đường Ngô Thời Nhiệm. Tụi Mỹ nó hẹn sẽ hạ trực thăng ở đó để bốc tụi tao.
Anh vội kêu lên:
- Thành phố đã hỗn loạn rồi, mày không thể nào tới đó được, mà trực thăng cũng không thể nào xuống được nữa rồi. Tao đã cố bò vào đây, mày lại cố bò ra. Thôi ở đây đi, xem có thể xuống được tàu hay không.
Anh nhớ đến những người bạn khác trong ngành Tình Báo đã tin tưởng vào trực thăng Mỹ đến bốc phút cuối cùng, hầu hết đều kẹt lại, lê lết trong các trại tập trung miền Bắc bao nhiêu năm trời, nhiều người đã không bao giờ trở về được.
*
Nhiều lúc ngồi nghĩ, anh phải tức cười về cách chọn nghề một cách tài tử của mình. Anh có một ông chú, hồi xưa thích đi đây đi đó, nên anh thường theo ông đi từ ga này đến ga khác trong các dịp nghỉ hè. Đến nay, anh vẫn còn nhớ được những tên ga trên vùng mạn ngược: Đồng Giao, Bản Thí, Lạng Sơn.. Những ga ở miền trung châu: Phủ Lý, Ninh Bình... Những ga ở miền trong: Đò Lèn, Hàm Rồng, Thanh Hóa ... Anh lại vẫn còn mường tượng được cái cảnh mấy chú cháu cố giữ thăng bằng đi trên con đường sắt trong những buổi chiều vắng lặng, mênh mông, mất hút như hai con đường song song chạy về cuối chân trời. Hay trong cảnh hoàng hôn, ngồi một mình trên băng ghế ở sân ga không người, sau khi chuyến tàu chót đã rời xa chỉ còn lại cái quạnh hiu của một ga xép đường rừng.
Ngay cả những năm sau khi đất nước chia đôi, ông cụ thân sinh anh theo sở đem gia đình ra Đà Nẵng, còn anh theo trường trọ học ở Saigon. Mỗi lần hè anh đáp xe hỏa trở về Trung, anh nhớ nhất những đêm ngồi trên bực lên xuống của toa tàu, nghe tiếng nhịp xe chạy đều, nhìn cảnh trăng sáng trên biển hay lấp lánh trên các rừng dừa ở bãi biển Sa Huỳnh hay vịnh Cam Ranh. Những chiều trên đỉnh đèo Hải Vân khi xe từ từ chạy vòng nghiến trên đường sắt ở ga Bãi Kả, hay lúc tàu vừa qua khỏi Hầm Sen, thấy cả một cảnh Lăng Cô đẹp như tranh vẽ. Càng đi, anh càng thấy đất nước mình thật đẹp và thấy mình yêu quê hương mình hơn.
Có lẽ vì thế cái máu giang hồ nó đã thấm vào anh. Khi anh vừa xong Tú Tài phần I tự nhiên anh thấy chán học, định theo một số bạn bỏ trường vì máu ‘’Giang hồ cuả ông Cử Hai’’ mà Nguyễn Tuân đã tả trong ‘‘Vang Bóng Một Thời’’ đã nổi dậy.
Anh đọc được một thông cáo của Trường Hàng Hải, bèn đến nạp đơn xin nhập học, tưởng rằng sau này mình sẽ thành một thuyền trưởng và sẽ có dịp đi năm châu bốn bể. Nhưng không hiểu vì lý do gì ít lâu sau trường này đóng cửa luôn.
Anh lại ngỏ ý xin vào Hải Quân, thì một người anh họ vội ngăn:
- Chú mà vào đó thì không có đời sống gia đình. Tàu của chú rồi cũng chỉ luẩn quẩn ở ven biển thôi.
Anh cảm thấy ấm ức vì lời khuyên. Cũng mùa hè năm đó, anh có dịp đi tàu thủy từ Saigon ra Đà Nẵng thăm gia đình, mấy ngày đêm trong tàu chỉ toàn ngửi mùi dầu. Ăn xong lại ngồi nhìn trời với nước, sách đọc mãi đến phát chán, chuyện nói rồi cũng hết. Anh thấy tù túng, cuồng cẳng và sốt ruột mà con tàu thì cứ lừ lừ, đủng đỉnh, không thể nhanh. Anh bỏ ý định vào Hải Quân.
Một hôm ngồi nhà nghe thấy Việt Tấn Xã tuyển phóng viên. Anh nghĩ cuộc đời tự do như mấy ông làm báo cũng thú. Anh đến Việt Tấn Xã gặp ông trưởng phòng. ngồi nói chuyện một lúc, ông cũng khuyên anh:
- Cậu nên về học nốt, không nên bỏ ngang rất phí!
Anh không còn biết nói gì hơn, bèn chào ông và lủi thủi bước ra. Hôm đó anh đạp xe một mình trên đường phố Saigon, tưởng chừng như bao nhiêu giấc mộng viễn du của anh từ trước đến nay như đã bị vỡ tan tành. Đời sống của anh như ngày càng thu hẹp lại một cách chán chường.
Anh vẫn chưa chịu thua. Ít lâu sau, một người bạn đến rủ anh đi nạp đơn vào Không Quân để thành phi công. Anh nghĩ lần này chắc thế nào cũng xong, mình cũng tạm cao ráo, đủ cân đủ lượng, mắt mũi không đến nỗi kèm nhèm.
Về đến nhà trọ, đang mơ màng nghĩ đến ngày được cưỡi mây, lướt gió, nhìn những thành phố nhỏ dưới chân, chắc là thỏa chí tang bỗng. Mấy người bạn được tin, họ không muốn mất anh, nên xúm nhau vào gièm pha:
- Đừng có vào nhà binh bó buộc lắm, cái ‘‘Máu giang hồ ông Cử Hai’’ của mày không chịu được đâu.
Thôi thì họ nhao nhao, mỗi người một câu ngăn cản:
- Không quân thì cũng oai thật. Nhưng mày thử nghĩ xem, sáng đi từ một nơi, chiều về lại nơi đó, và nếu không về là đi luôn đấy! Thôi cố học nốt phần 2 đi, rồi sẽ tính sau!
Họ cố tình giữ anh lại, nên anh cũng đành chiều theo ý bạn. Ngày ngày lại hai buổi lẽo đẽo đạp xe đến trường, ngồi trong lớp chật như cá hộp, mồ hôi chảy như mỡ, ngủ gà ngủ gật gượng không nổi. Tối về gác trọ, vừa đập muỗi, vừa ‘‘gạo’’ cho kỳ thi sắp tới.
***********
Nhớ lại khi học hết Trung Học, năm đó chính phủ mở rộng nhiều Đại Học, thi vào đâu cũng dễ. Anh và mấy người bạn suốt ba tháng hè chỉ bận rộn vác đơn đi nạp và ngồi trong các phòng thi tuyển. Nhưng chẳng ai có định kiến gì chắc chắn. Đang thi vào Trường Kỹ Sư Phú Thọ, cả bọn bỏ ngang rủ nhau đi ciné buổi chiều hôm đó. Nạp đơn thi vào Sư Phạm cũng không chịu đến thi, chỉ sợ sau này phải sống một cuộc đời mô phạm, gương mẫu, đúng giờ đúng giấc hơn cả mọi người.
Cuối cùng, chẳng vào được trường nào. Anh và một người bạn thân rủ nhau vào học năm Dự Bị Y Khoa, lúc đó không cần thi nhập học. Mấy tháng trời làm quen với cảnh chai lọ, đo đo, ngắm mgắm cho đủ phân lượng. Tối về lại vùi đầu cố học thuộc những công thức này, công thức khác đến phát ngán..
Vài tháng sau, người bạn bỏ anh lên Đại Học Đà Lạt học ban Anh Văn. Anh ta viết về những lá thư dài tả những buổi sáng nằm một mình trong ký túc xá, nhìn qua khung cửa kính, thấy hoa anh đào nở trong sương lạnh, những bụi hồng leo cố bò sát cửa sổ. Người bạn lại kể cả cảnh đi thăm hồ Than Thở, thác Gougar, rừng Ái Ân và gửi cho anh một tấm hình chụp một mình ở Suối Vàng. Trông người bạn, anh thấy cả một nỗi cô đơn, vì phải xa Saigon, vì thiếu những người bạn thân thiết bao nhiêu năm trời ở Trung Học. Hồi đó hình như người bạn còn yêu một cô gái mà anh quen, nhưng đã không thố lộ cho anh biết.
Nhớ lại bạn và những tháng ngày trên gác trọ, những buổi lang thang đạp xe trên đường phố hay những ngày Tết, những ngày hè anh không về thăm nhà được, người bạn thường rủ anh về với gia đình anh ta ở đồn điền Quản Lợi. Anh và bạn suốt ngày đi chơi trong các vườn cao su, trong các làng Thượng hay tối theo một số người đi săn nai...
Mấy năm trước, xuống Cali, được tin bạn cùng một đứa con đã nằm dưới biển sâu trên đường vượt thoát, anh ngậm ngùi thấy nỗi buồn của những ngày xa xứ càng thêm nặng.
Ít lâu sau, trong cái năm xưa đó, anh cũng bỏ trường Khoa Học và thi được vào trường Hành Chánh. Ngày ngày ngồi trong giảng đường nghe những bãi giảng triền miên. Nghe Giáo sư Nguyễn Cao Hách, thao thao bất tuyệt về những lý thuyết kinh tế, từ khi bước vào lớp cho đến khi bước ra. Sinh viên chỉ việc chúi mũi ngồi ghi, không có thì giờ cựa quậy. Những bài giảng của Giáo sư Nguyễn Văn Độ về luật Hành Chánh rối bời như một mớ bòng bong. Lớp anh học đã ít người, lại gặp Giáo sư Nghiêm Đằng, ngồi giảng nghiêm khắc như ở chỗ công đường ngày xưa, về luật Tài Chánh và Công Phí. Giáo sư Vương Văn Bắc thì lầm lì, nói những lời đanh thép về Chính trị học hay Luật Hiến Pháp. Lại mấy vị luật sư vừa là giáo sư của trường, thường phải đi biện hộ ở tỉnh xa, nhiều hôm cãi thua mang cả cái bực dọc vào trong lớp và thường hiểu lầm cái cười nửa miệng của anh, khiến có lần anh đã bị đuổi ra khỏi lớp. Sau này, anh mang những mớ lý thuyết cao siêu đó về địa phương, loay hoay với đám dân nghèo và lũ du kích tinh ma.
Nhưng được cái là đi học chỉ việc ngồi nghe và ghi các lời giảng, về nhà chẳng cần phải làm bài, học bài. Cứ để đến kỳ thi hãy tính sau. Cuối tháng lại được lãnh học bổng cũng khá như một công chức, đủ để mang đi vung vít. Cái máu ‘‘Giang hồ của ông Cử Hai’’ của anh cũng tạm yên. Anh cũng chẳng để ý gì đến cái cảnh mai sau phải sớm vác ô đi, tối vác về, và anh cứ để cái cuộc đời sinh viên đó trôi đi một cách dễ dàng không suy nghĩ...
*
Sau khi tốt nghiệp trường Hành Chánh và sau gần một năm trời ở Quân Trường Đồng Đế về. Bạn bè anh đã đi xa gần hết. Anh mang cái đầu húi cao, da cháy nắng đen xạm đi lạc lõng ở Saigon hay ngồi từng ngày dài trong các quán cà phê, đợi ngày được ném đi vào một vùng xa xôi nào đó mà mình chưa được biết.
Nhớ lại thời gian ở Đồng Đế, những ngày đầu của một tháng huấn nhục, quân trường không thấy bóng ai đi bộ, di chuyển là chạy. Phạt thường thường là tập thể và xảy ra luôn luôn, ít nhất mỗi lần là 50 cái hít đất. Tối nào cảnh phạt dã chiến cũng diễn ra vừa khôi hài vừa mệt đứt hơi. Mỗi bữa ăn không được kéo dài quá năm phút, nghe tiếng hô ‘’Đứng dậy!’’ là mọi người phải đi ra khỏi phòng ăn. Mất trật tự một chút là bị giải tán và kêu tập họp lại đến năm bảy lần mới được tha. Sĩ quan cán bộ tha hồ sỉ vả, ai tỏ ra tự ái là bị phạt liền, nhiều lúc không có duyên cớ, vì khi huấn nhục, chủ thuyết nhân vị của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phải để ngoài cổng trường.
Những cuộc di hành hàng tuần theo tốc độ, nếu về chậm là cả tiểu đoàn lại phải đi lại. Mỗi lần như thế, trông một số bạn đến thật thối chí, đường thì còn xa, có anh ‘’bế’’ khẩu Garant M1, tưởng như gánh nặng ngàn cân, mặt chảy dài như chai bia, cố lết đi tưởng như không bao giờ về đến đích được. Câu đầu của bài Lục Quân Việt Nam được đổi thành ‘’ Đường trường xa, con chó nó tha con mèo...’’. Có anh người cao ngòng ngoèo, đeo súng đạn quanh người, lưng mang sac-au-dos nặng ba mươi kí, nhiều lúc uốn éo trông như một anh cu ngoắy. Có anh, lúc đứng ở thế nghiêm trong hàng, súng cao ngang đầu. Có anh, đã mệt còn bị sỉ vả đâm bừa, bị phạt trọng cấm hoài, có khi lại bị phạt chung với các quân nhân phạm kỷ luật trong quân trấn. Trong số đó, nhiều người học hành cố gắng, gương mẫu, có anh có số điểm cao nhất đỗ đầu, nhưng để cho cân bằng với bên quân đội, thành đồng thủ khoa của khóa.
Không thể nào quên được trong cái lò luyện thép đó, anh và các bạn vốn là những thư sinh cùng với những người có cấp bậc Trung Sĩ được huấn luyện để trở thành sĩ quan hiện dịch. Dù sau này anh có được học thêm các lớp cao cấp hơn, anh vẫn nhớ những người bạn đó. Cả cuộc đời của họ đã gắn liền với quân ngũ, đã tham dự khắp chiến trường, từ những trận bình định trong miền Trung châu sông Hồng đến những trận đánh thí người Hòa Bình, và cuối cùng lại được thả xuống cứu Điện Biên tuyệt vọng. Họ gan lì, hãnh diện với binh nghiệp, nhưng lại giàu tình đồng đội.
Cũng không thể nào quên được những ngày cùng họ vượt Hòn Khô, qua đèo Rù Rì hay băng qua những cánh đồng Diên Khánh. Những đêm tảo thanh dọc đường xe lửa, vừa đi vừa buồn ngủ, vồ cả người vào cây cối bên đường. Có những lần vượt suối mùa mưa, trôi luôn cả súng. Những buổi ngồi ở thao trường, nắng cháy rát bỏng cả áo trận. Nhiều tối không được nghỉ, các đại đội phải luân phiên nhau đem cát, xi-măng và nước lên đỉnh Hòn Khô để đắp tượng một người lính đứng theo thế thao diễn nghỉ, cao gần hai chục thước để làm kỷ niệm của khóa cho quân trường. Những buổi sáng chạy bộ từ Đồng Đế đến Cầu Đá, rồi quay trở về, nếu hôm nào không may bị xếp vào hàng giữa thì hôm đó đến ngạt thở vì hơi người xông ra nồng nặc. Những buổi tối ngồi gác tại Ba Làng, nhìn trăng sáng long lanh trên mặt biển. Những buổi thao dượt tấn công, phản phục kích, vượt cầu dây, tuột núi, hay bò dưới hỏa lực ban đêm mà đạn bay vèo vèo thành những đường thẳng sáng lia lịa trên đầu.
Nhớ đến cả những buổi nghỉ phép cuối tuần, mặc quân phục dạo phố cứng ngắc, mặt cháy nắng như chà và, đi lên đi xuống hàng chục lần dọc phố Độc Lập. Những buổi chiều tại các quán dọc bãi biển Nha Trang, ngồi ngắm biển xanh, nghe tiếng thùy dương và những đợt sóng xô vào bờ đều đều mà nghĩ đến một ngày nào mình được trở lại Saigon.
Nghĩ đến những người bạn xưa lúc đó, sau này trở thành những ‘’Cọp Đầu Rằn’’, thành những ‘’Trâu Điên’’, những ‘’Lôi Hổ’’ ... tung hoành trên khắp các chiến địa một thời. Có người đã anh hùng nằm xuống từ lâu trong thung lũng Ashau, trong sình lầy Đồng Tháp, ở chốn địa đầu Tam Biên hay nay đã thất thế tàn lụi trên quê hương, nơi mà họ chiến đấu cho khỏi cảnh ngục tù thì nay đã trở thành ngục tù cho chính họ.
Cũng như mọi người, quân trường đã huấn luyện giúp anh và các bạn anh trong những ngày sắp tới, lòng tự tin, can trường, tôn trọng kỷ luật và nhất là tinh thần đồng đội. Với những câu châm ngôn ’’Tự Thắng Để Chỉ Huy’’, cùng với ‘’Danh Dự, Trách Nhiệm và Tổ Quốc’’, và những lời thề tại vũ đình trường ngày nào vẫn còn văng vẳng mãi đâu đây. Quân trường lại còn giúp cho cách làm việc chính xác, không như những ly thuyết cao xiêu rối bời thu thập trong đời sinh viên tại Đại Học. Ngay như một cái lệnh hành quân mạch lạc: Ước lượng tình hình địch, tình hình bạn, ấn định mục tiêu, kế hoạch hành quân, phối hợp truyền tin, tiếp vận, nó như một cái mẫu để giúp mọi người làm những chuyện lớn chuyện nhỏ sau này.
Trong mục đích huấn luyện tối hậu của Tổng Thống Diệm, anh và các bạn được chỉ định vào những chức vụ chỉ huy trung đội hay đại đội trưởng khóa sinh để sau này hi vọng có thể nắm vững tình thế tại địa phương. Một lần anh được cử làm tiểu đoàn trưởng, có dịp đứng trong vũ đình trường, trước ba quân hét lớn: ‘’Tiểu đoàn theo lệnh tôi!’’, để xuất quân khởi đầu một cuộc dạ hành đi bộ 60 cây số, suốt đêm. Theo Tướng Đỗ Cao Trí, một người lính bộ binh giỏi là một người đi bộ giỏi.
Sau khi ra khỏi quân trường, anh và các bạn hầu hết được đưa về địa đầu, các quận miền Trung, Cao nguyên hay đồng bằng Cửu Long, và đều tham gia vào các cuộc hành quân lập ấp. It lâu sau, anh nghe tin một người bạn Nguyễn Ngọc Vỵ thành Quận Trưởng tại một quận trong tỉnh Bình Định.
Nhiều lúc ngồi nhớ lại, tự nhiên một bài quân hành quen thuộc mà thường vừa hát vừa phải gào lên trong quân trường chợt vang đến anh:
‘’ Đường về Nha Trang nung chí người trai.
Một trời thép súng nở hoa tươi cười
Tập luyện ngày đêm luôn có anh tôi
Mưa nắng thao trường thấm bao mồ hôi
... ...
Leo dây tử thần đùa với gió núi
Đu đưa giữa trời một đêm không trăng sao
Xung phong lên quyết chiến thắng gian lao
Chiến công rực rỡ trong nắng đào’’
Tiếng quân hành của đại đội năm xưa đó, lẫn với nhịp đi và tiếng hô: ‘’Hai, ba. To lên!’’ hòa cùng gió biển, từ một miền cát trắng, bên kia bờ đại dương nay hẳn như đã là một âm ba huyền thoại của một thời chinh chiến đã xa...
*
Hơn tháng sau, anh xuống tỉnh Kiên Giang trình diện, mới biết nhiệm sở của mình là đảo Phú Quốc. Anh thản nhiên cầm sự vụ lệnh do ông Phó Tỉnh Trưởng, một người tốt nghiệp trước anh nhiều khóa trao cho. Ông ta như có vẻ ái ngại, an ủi một sinh viên mới ra trường:
- Em cứ ở tỉnh ít lâu cho quen, ngoài Tết hãy ra cũng được. Nếu cần gì thì cho ‘‘qua’’ biết.
Anh cám ơn ông và bước ra khỏi Tòa Hành Chánh. Khi vào trường, lúc nào cũng tưởng mình sẽ được ở Saigon, cùng lắm là đi tỉnh. Nay tỉnh cũng không được mà quận lớn cũng không xong. Bây giờ lại là một hòn đảo, nghe cũng thấy là lạ...
Anh ra khỏi Tòa Tỉnh Trưởng, đi dọc theo kè đá, tự nhiên mùi hăng nồng của con lạch cửa biển và hình ảnh những con thuyền nằm bên nhau để chờ con nước ra khơi đã đưa đến cho anh những cảm giác lạ chưa từng có.
Tối đó, anh trở về khách sạn. Trong giấc mơ, tự nhiên anh thấy những hòn đảo xanh, những vùng biển lặng, thơ mộng như những truyện anh đã đọc. Anh thấy cả những cô gái mặc xiêm y sặc sỡ, mình trần, tóc xõa dài như trong các tranh vẽ của Gauguin hiện ra, mộc mạc và đa tình đang múa những vũ điệu của miền nhiệt đới trong tiếng trống bập bùng. Một lần nữa, anh tưởng như mình sẽ lại được sống một cuộc đời bồng bềnh như mây nước để đi tìm những thiên đường đã mất từ lâu...
Anh ở Rạch Giá gần tháng trời trong khách sạn Hải Thiên. Chiều chiều, lên sân thượng nhìn ra biển xa, để cố tưởng tượng đâu là Phú Quốc, nhưng chỉ thấy đảo Hòn Tre nằm phục ngoài xa như một con rùa bơi trên mặt nước và những cánh hải âu dập dờn trong gió...
Hàng ngày tiệm cơm tàu Đông Phát hay Hưng Phát gì đó cho người bưng cơm đến tận phòng. Anh nghĩ, sao có người đàn anh ở khóa trên lại lo cho đàn em một cách chu đáo đến thế. Nằm dài mà ăn cơm tàu mãi cũng phát ngấy, trời lại gần Tết, anh bèn lấy cớ xin về Saigon để sửa soạn thu xếp trước khi ra đảo. Biết lần này đi lâu lắm mới có ngày trở lại. Anh cùng một vài người bạn còn lại như sống vội, đi ngồi hết nơi này đến quán nọ như để tạm biệt. Hết Mai Hương đến Hanoi, hết Brodard đến Pagode, rồi vòng về Thanh Bạch ngồi nhìn đường phố, ngồi nhìn những tà áo lụa bay mà mình sắp sửa phải rời xa. Tối đến anh lại cùng các bạn đến các vũ trường, từ Mỹ Phụng đến Olympia, từ Đại Nam sang Baccara, từ Arc-en-Ciel đến Melody... Anh ngồi trước những ly nước, trước những cái gạt tàn đầy khói thuốc và nghe những bản nhạc rã rời trong nửa đêm về sáng. Đúng như truyện tình cải lương của anh lính chiến: ‘’Ngày mai anh đã đi xa rồi, Thành Đô lưu luyến níu bước chân anh trước giờ biệt ly có ai không bùi ngùi...’’
*
Phú Quốc là một hòn đảo lớn nhất của Việt Nam, nằm trong vịnh Thái Lan, gần Cam-Bốt hơn Việt Nam. Chiều dài 50 cây số, chiều ngang chỗ rộng nhất là 30 cây số. Trên máy bay nhìn xuống, anh thấy toàn một màu xanh. Màu xanh của biển cả và màu xanh của núi rừng. Hai cái màu xanh ấy được phân biệt bởi những đợt sóng bạc vỗ vào bờ. Tự nhiên, anh thấy tâm hồn mình lâng lâng, nhẹ nhàng như xa rời hẳn được những mệt mỏi của cảnh phồn hoa đô thị và như đang được đưa vào một cảnh hư ảo, hoang sơ.
Lúc anh đến đảo, tất cả các đường bộ đều bị cắt đứt. Các ấp còn lại toàn nằm sát ven biển và mọi sự giao thông đều phải dùng đường biển.
Đảo chỉ còn lại hai xã: xã Dương Đông nằm bên phía Tây gồm ba ấp Cửa Cạn, Dương Đông và Cây Dừa. Xã Hàm Ninh nằm bên phía Đông gồm hai ấp Bãi Bổn và Hàm Ninh. Còn một xã Dương Tơ nằm phía trong đảo, đã bị xóa tên từ mấy năm qua. Trong năm ấp còn lại, bốn ấp đã có hàng rào chiến lược, còn lại ấp Bãi Bổn nằm phía ven Đông Bắc chưa có hàng rào.
Những ngày đầu anh chưa biết làm gì, ngày ngày ngồi ký hàng chồng các bản sao khai sinh, hôn thú, những chứng từ thị thực, những giấy phép xuất nhập đảo... Sau đó, anh được nhân viên quận đưa đi thăm mọi người và mọi nơi trong quận lỵ.
Anh sang xóm Cồn để ngửi mùi nồng thơm của biển và nhìn ngư dân ngồi vá lưới. Sang chợ cá để thấy cảnh ướt át, tấp nập chuyển cá lên bờ. Vào các hãng nước mắm Hồng Đại, Sáng Tươi, Huỳnh Thành Tựu,.. tự nhiên thấy mình nhỏ bé, đứng dưới những hàng thùng khổng lồ và được chủ nhân cho nếm nước mắm cốt để từ mấy chục năm qua, thường dùng làm thuốc chữa bệnh. Đến xóm Quy Khu, thấy hàng dãy nhà mới san sát do dân ở các vùng xôi đậu trở về lập cuộc đời mới.
Họ cũng không quên đưa anh lên thăm miếu Dinh Cậu ở cửa Dương Đông. Họ tin tưởng rằng, ai mới đến đảo, nhớ đến thắp nén hương trình diện sẽ được Cậu phù hộ che chở.
Chẳng bao lâu. anh quen gần hết mọi người. Ai lạ mặt từ đâu tới anh có thể nhận diện được ngay. Anh làm việc với họ như trong một đại gia đình. Ngày giỗ, ngày kỵ, đám cưới, đám hỏi, họ không chịu quên anh. Ngày Rằm, anh được sư ông mời lên chùa lễ Phật và dùng cơm chay. Đầu tháng, anh đến thánh thất Cao Đài dự cuộc hành lễ. Ngày lễ Công Giáo, lại thấy anh ngồi trong đám giáo dân nghe tiếng vị Linh Mục giảng lẫn với gió biển trong một thánh đường cổ rêu phong đã được xây từ thế kỷ trước.
Có một lúc sự giao tế đã chiếm gần hết ngày giờ của anh. Sáng ra, ngồi hàng giờ ở quán Phù Ngọc Lục ăn hủ tíu, uống cà phê. Chiều đến, lên nhà mát Sơn Hải do Bảy Hiền, làm quản lý, ngồi nhậu các món biển nhúng giấm và nhìn mặt trời tròn đỏ ửng lặn dần xuống mặt biển. Có lúc lại ngồi trong nhà lồng chợ, ở quán Cù Đe tới khuya mới trở về quận.
Hình như, dân chúng nơi xã, quận có một thói quen để dò tính người; sau đó mới tỏ thái độ để hợp tác làm việc. Họ thường kính nể, cởi mở và thành thật với những người ‘‘chịu chơi’’ với họ, nhất là trong vụ ăn nhậu.
Ngày trước, anh không uống nổi nửa ly bia mà trong những ngày ở đảo, anh cũng cố theo họ đi từng vòng uống đến chục ly cối, đắng cả miệng, nhưng anh cũng cố giữ để không bao giờ bị gục.
Nhiều lần, cố nể lời mấy chàng Địa Phương Quân hay Nghĩa Quân ngồi quanh một chậu rượu đế, họ pha thêm những thứ gì mà anh không được biết, uống đến xây xẩm cả mặt mày. Họ lại cố mời cho bằng đuợc để cho pha thêm một ít giọt ‘‘Huyết hổ mang’’, cầm đũa gắp một miếng tiết canh rắn và ăn một miếng chả trăn mà lần hành quân trước mấy người lính Miên đã bắt được trong rừng. Anh cố ăn ra vẻ ngon lành, nhưng lúc về, nghĩ lại vẫn còn thấy ghê.
Chẳng bao lâu, anh từ một sinh viên mới ra trường, suốt đời sống ở thành thị, đã cố chịu sự thử thách của người dân, của những người lính tiền đồn, anh đã nhập được vào với họ, và anh thành một dân ‘‘chịu chơi’’. Chính anh, anh cũng đã vừa từ một lò luyện thép được tôi ra, nên anh cũng chẳng từ chối những nhiệm vụ cùng với họ trong các cuộc hành quân lập ấp mà chính phủ đã đặt chỉ tiêu cho đảo.
Phú Quốc lại gồm các ty, sở như một tỉnh nhỏ. Nhưng những công chức làm việc trên đảo thường coi như bị đi đầy. Họ đếm từng ngày một để chóng được trở về đất liền. Buồn nhất là nghe những người lính, bao nhiêu năm không được trở về đất liền, bao nhiêu năm không được trở về quê hương thăm cha mẹ, họ hàng thân thuộc. Những em nhỏ, nói đến Saigon như nghe truyện một giấc mơ, hay ở một thế giới khác, mà nghĩ rằng cả đời mình chắc khó có ngày đến đó được. Những cụ già từ xóm xa, khi đến quận gặp anh vẫn chắp tay vái và gọi anh bằng ‘‘Quan’’. Dặn mấy ông cụ bao nhiêu lần là chỉ cần gọi bằng ‘‘Ông’’, nhưng vừa được câu trước, đến câu sau, các cụ lại quen miệng gọi là quan như thường. Đã sang đến thập niên 60 mà khi hỏi các cụ, ai là người đứng đầu nước Việt Nam bây giờ. Các cụ vẫn trả lời là ‘‘Vua Bảo Đại’’
Nhiều lúc anh ngồi nghĩ, trải qua bao nhiêu cuộc cách mạng, bao nhiêu cuộc chính biển ở thượng tầng, những làn sóng, những âm ba đó đã chẳng thay đổi được những tư tưởng ở chốn tận cùng này hay sao?
Anh muốn mang một chút sinh khí mới cho những sinh hoạt trên đảo. Anh hay hội họp với mọi người, khuyến khích tổ chức các sinh hoạt tập thể hay các buổi trình diễn văn nghệ công cộng, các ngày đi chơi ở những hòn đảo xa hay săn cá dưới biển...
Trong những buổi công chức học tập chính trị hàng tuần, nhiều lúc anh quên cả cái nhiệm vụ là phải nói cho họ nghe những chủ thuyết nhân vị, cần lao... Anh lại rẽ sang một ngã khác để họ tham gia bàn cãi những vấn đề khác thiết thực, những vấn đề căn bản chính trị và kinh tế, hay các mục thời sự quốc tế, quốc nội... Một ông công chức già, đến nhắc khéo anh là phải cẩn thận. Anh nghĩ, kể mình cũng liều lĩnh và coi thường. Nhưng may, mấy đảng viên Cần Lao trên đảo cũng là dân chịu chơi nên họ cũng chẳng báo cáo về ông ‘‘Cố vấn’’ làm gì
*
Năm ấy, trời lại cho được mùa cá, nên mọi người được thỏa thuê. Nhà gạch được xây thêm, ghe thuyền có nhiều cái mới. Đêm đến đèn đất thắp sáng mọi nơi, ăn uống nhậu nhẹt không ngừng.
Nhiều hôm, anh ra khơi cùng ngư dân, đứng trên thuyền nhìn những đám cá Bạc Má trải dài hàng mấy chục cây số dọc theo đảo. và những đàn chim biển xà xuống để kiếm mồi. Họ chỉ cần chọn đàn cá nào lớn để bủa lưới cho bõ công. Có khi gặp được đàn cá lớn, phải gọi thêm thuyền khác đến để cùng mang về và thuyền nào cũng đầy ắp.
Có đêm, anh lại theo họ neo thuyền để thẻ mực. Đèn từ các con thuyền nhỏ thắp đầy biển như sao sa hay như một thành phố nhỏ ngoài khơi.
Nhiều khi nửa đêm chợt thức giấc, anh trở dậy đứng từ bên quận, nhìn sang cồn, đèn đuốc sáng trưng và tiếng nói cười huyên náo của những người gỡ cá vọng sang xóm quận. Anh cảm thấy cái vui cùng mọi người và hân hoan như thấy những người trong gia đình đi xa làm ăn, nay trở về mang theo tiền rừng bạc biển.
Một hôm, đứng trong quận nhìn qua khung cửa lớn, anh bỗng thấy một đoàn gần chục chiếc thuyền buồm lớn đang lừ lừ tiến về phía quận. Anh tưởng tượng ngay đến những phim ảnh có cướp biển đã xem trước kia. Anh vội quay vào gọi mấy nhân viên quận, họ cho biết đó là những dân Bình Định lại vào đánh cá ở vùng này. Thường thường khi hết mùa, họ lại đợi gió rong ruổi trở về quê. Nhưng năm đó, sau mùa cá họ xin ở lại, vì miền Trung chiến sự sôi động, bất an. Anh để họ định cư ở xóm Cồn. Dân Bình Định ngày càng vào đông, anh đổi tên và gọi xóm đó là xóm Bình Định.
Nhiều lần Hải Quân kéo ở đâu những chiếc tàu đánh cá của Thái Lan hay Tân Gia Ba xâm phạm hải phận về, yêu cầu Quan Thuế và Quận lập biên bản. Biên bản lập xong gửi về tỉnh, tỉnh gửi về trung ương, dân đánh cá vi phạm chờ hai ba tháng dài người, có bao nhiêu đồ tế nhuyễn trong người đem bán hết. Nhiều khi, cuối cùng quận lại phải nuôi ăn.
Có lần, một du thuyền của một cặp vợ chồng người Úc dự định đi vòng quanh thế giới, hỏng máy dạt vào đảo, bị lính giữ để trình về tỉnh. Tối hôm đó, họ chữa được máy và lén trốn đi. Hơn một năm sau, về Saigon, anh tình cờ đọc một tờ báo, có tin du thuyền này đã đến được Pháp, và họ cho biết đã lạc vào một hòn đảo Việt Nam và bị bắt giữ ở đó.
*
Ít lâu sau, chính phủ trung ương yêu cầu phải hoàn tất chương trình ấp chiến lược trên đảo và phát triển các dự án tự túc tại các ấp đã thành lập. Anh có dịp quay lại các ấp xa để hội họp với dân chúng, nghe các lời bình nghị về các nhu cầu, các dự án trong ấp. Sau đó để họ quyết định theo tính cách dân chủ, đa số.
Anh cố giữ một vai trò hướng dẫn và thường yêu cầu các ty sở chuyên môn chiết tính về phần kỹ thuật, rồi chuyển về tỉnh xin chấp thuận. Hầu hết các dự án đều dựa trên căn bản dân góp công, chính phủ góp ngân khoản.
Các dự án này đều mang lại lợi ích cần thiết và trực tiếp cho dân chúng như: mở rộng trạm y tế và hộ sinh, làm thêm lớp học, phòng đọc sách, sửa lại cầu tầu, làm cầu mới thay cầu khỉ, làm nhà vệ sinh công cộng có mái che mưa hay đào thêm giếng.
Mỗi lần đi đến các ấp, anh thường nhờ ghe của Vũ Quốc Công, Thiếu Úy Hải Quân, là bạn thân từ hồi còn ở Trung Học. Công cũng vừa ra trường Hải Quân Nha Trang và cũng được đưa ra đảo nhận nhiệm vụ của một Đội Trưởng Hải Thuyền. Anh ta có một số ghe ‘‘Kiên Giang’’ và một hai ghe chủ lực có mã lực mạnh, được trang bị đại liên và đôi khi có súng cối 81 để pháo kích vào đảo.
Mỗi lần thấy bạn từ biển trở về, thân hình phong sương gầy rạc, mệt mỏi và ít nói, anh cảm thấy thương bạn vô cùng. Nghĩ đến Công, hàng tuần dài trên chiếc ghe nhỏ, vượt sóng để chỉ huy phong tỏa một vùng biển hay nằm một chỗ chịu những cơn sóng nhồi tại một nút chặn trong đêm để khám phá những đường tiếp liệu từ Cam-Bốt vào Đồng Tháp của Việt Cộng.
Những lần gặp lại bạn vào những ngày cuối tuần, hai người thường cùng bạn bè ngồi ăn nhậu ở quán Cù Đe, rồi sang bên cạnh chia phe chơi bi da. Mỗi lần bên thua phải chịu phần ‘‘mồi’’ hay ‘‘la de’’. Nhiều đêm cả hai bên, lúc thua lúc được, ‘‘mồi’’ gom ra đầy bàn, la-de chất thành đống, uống không hết. Có tên say khướt, cầm can đẩy banh rồi nhào theo, gục trên bàn nằm luôn, dậy không nổi nữa.
Gần sáng, cả bọn mới lảo đảo trở về quận ngủ. Lũ chó hai bên đường lại được một phen sủa vang làm náo động cả khu xóm. Có hôm trời tối đen, gặp toán tuần tiễu, chúng đứng đằng xa quát:
- Ai, đứng lại.
Cả bọn cứ tỉnh bơ, bước thấp bước cao khiến chúng phải quát thêm và lên đạn lách tách. Thiếu Úy Hoàng, Địa Phương Quân vừa mới ở Quân trường Thủ Đức ra, lên tiếng quát lại:
- Tao đây!
Toán tuần tiễu nhận ra bèn ùa đến:
- Các ông đi đâu khuya quá, để chúng em đưa về
Anh vội cám ơn họ và nói:
- Thôi để chúng tôi về một mình cũng được.
Sáng sau Chủ Nhật, dậy muộn đi ăn sáng. Qua nhà cô Phụng, vợ nhỏ của một ông Đại Tá ở Saigon, cô mặc bộ bà ba trắng đứng ở trong sân, dưới mấy gốc dừa, nói vọng ra:
- Gớm hôm qua, các ông làm gì mà ồn ào, hát vang cả xóm làm tôi thức giấc, ngủ lại không được nữa.
Cả bọn cùng đứng lại, tán chuyện gẫu và cùng nghĩ đến đêm trước, như một bọn Tây say... Buổi sáng thật êm, trời thật trong, biển thật xanh. Ánh nắng long lanh đã bắt đầu hắt lên từ những gợn sóng nhỏ và gió mát ngoài xa thổi vào làm vương mấy sợi tóc trên khuôn mặt trắng ngần của cô. Anh chợt nhớ cô hay nói cô thường rửa mặt bằng nước dừa tươi.
*
Có lần, Công và anh mãi không về được đất liền, cuồng cẳng. Tối Thứ Sáu, rủ nhau lấy ghe chủ lực rời đảo vào Rạch Giá, định tối Chủ Nhật quay lại. Nhưng vừa ra khỏi cửa biển, gặp hôm trời trở gió, biển động sóng đánh gần dựng ngược chiếc ghe, không qua khỏi mũi Ông Đội, đành phải trở về.
Một ngày cuối tuần, hai người nghĩ ra chơi trò ‘‘Lỗ Bình Sơn lạc vào hoang đảo’’, bèn rủ một số công chức trẻ ra đảo hòn Thơm. Mấy cô giáo Tàu cũng đòi đi theo. Anh và bạn giao hẹn với mọi người không được mang một thức ăn nào theo. Ra ngoài đó, không có tiệm mua bán, kiếm được thứ gì ăn thứ đó. Thử xem sao!
Hôm đó, trời nắng dịu, biển êm như mặt hồ. Hai người nằm trên mui chiếc chủ lực, nhìn những đám mây trắng hững hờ trên cao, nhìn những khu rừng bí hiểm dọc theo đảo, và nghe một cô giáo Tàu vừa cất cao giọng hát bài ‘‘Cánh Hồng Trung Quốc’’ theo tiếng đàn lục huyền cầm của Minh, bên Ty Thanh Niên. Tiếng hát của cô trong và nhẹ như một sợi nhạc bồng bềnh chạy dài, khiến anh mơ màng tưởng như con thuyền muốn thoát hẳn lên cao...
Lúc tới hòn Thơm, thuyền chưa cặp bãi, một vài người đã cởi áo nhào xuống tắm. Anh cũng đeo kính bơi vào mặt và cầm cây súng săn cá nhoài người nhảy theo bọn họ. Nước biển thật mát và trong nhìn xuống tận đáy, anh quẫy mạnh chân theo mấy người bạn lặn xuống sâu. Trước mắt anh bỗng hiện ra cả một rừng san hô kỳ ảo. Những cây san hô trắng mọc cao hơn một thước chen lẫn với những cây màu nâu, xanh, tím, hồng rực rỡ. Anh bơi theo những đàn cá lạ đủ màu, mà sau này anh thường thấy được bày bán trong các tiệm cá nhiệt đới ở Mỹ. Thỉnh thoảng chúng lại ngừng bơi ngơ ngác nhìn anh, như ngạc nhiên thấy một con vật lạ lùng đang lạc vào thế giới riêng biệt của chúng.
Anh lặn và bơi quanh co theo những đàn cá một hồi lâu, đến lúc ngoi lên bơi vào bờ, cùng bàn tính đến chuyện không hiểu hôm nay mọi người sẽ kiếm được gì để ăn. Họ phân công, chia làm hai toán, một toán mang shotgun lên núi kiếm muông thú, một toán mang mấy trái lựu đạn xuống biển ném cá. Anh định theo lên núi, nhưng mọi người giữ anh lại đễ lặn xuống mò cá.
Toán xuống biển đi dọc theo bãi và chọn một chỗ có những hang đá chắc là có cá. Kéo chốt an toàn và ném trái lựu đạn xuống. Sau tiếng nổ ục ngầm dưới nước, những con cá quanh quẩn đó bị sức ép choáng váng bơi không nổi và chỉ cần lặn ngay xuống để bắt. Nếu không mau, chỉ trong chốc lát lũ cá sẽ tỉnh lại và bơi đi mất.
Khi mang cá lại chỗ cũ thì củi lửa đã sẵn sàng để nướng và toán lên núi cũng mang được vài con chim về. Nhưng lúc nướng xong, mọi người nhai không nổi vì không có mắm muối ướp gì cả, nhạt tanh. Tội nghiệp cho mấy cô giáo bị một trận đói meo.
Có một tên ngồi trên mỏm đá nhìn mọi người ngắc ngư nuốt không nổi, ôm bụng cười các ‘‘Lỗ Bình Sơn tân thời’’ khiến cả bọn đến phát cáu. Mấy người bèn nhào đến hùa nhau quăng hắn xuống biển. Hắn la ơi ới vì không biết bơi và xin cho tìm cách chuộc tội. Hắn xuống thuyền lục lọi một lúc, rồi mang lên một xâu bánh mì với cá hộp, lại có cả la-de. Thảo nào lúc mọi người phân công đi kiếm thức ăn, hắn không chụi đi, cứ tỉnh bơ tìm chỗ kẽ đá mát trải chăn nằm đọc truyện.
Buổi chiều trở về, biển còn xanh, trời còn trong, gió còn nhẹ. Mọi người sau một ngày hoạt động đều mệt mỏi, ngồi tựa vào thành thuyền yên lặng hay lim dim ngủ. Chỉ còn nghe thấy tiếng máy chạy đều và tiếng nước róc rách ở mạn thuyền. Anh mơ màng nghĩ đến những ngày đã qua, sống xa hẳn cuộc đời buồn nản không lối thoát tại thành phố, nay lại được tự do nằm giữa vùng biển rộng trời cao.
Tự nhiên, anh nghĩ đến người mình yêu, đang cùng bạn bè phóng xe ‘‘solex’’ trên đường phố, hay đang ngồi cười rỡn tại quán mỳ Cây Nhãn Dakao ngày nào. Anh mong có người yêu ở bên cạnh, trên con thuyền này, trong cảnh biển chiều mênh mông đang xuống. Anh chắc, sẽ không còn nhìn thấy mọi người xung quanh, chỉ còn hai người trong một vùng êm đềm, ảo mộng. Anh sẽ nắm lấy tay nàng và nghĩ đến một ngày nào đó, anh sẽ mua một trong hòn đảo nhỏ kia, sẽ có căn nhà bên dòng suối, bên những vòm cây xanh mát, đầy những hoa lá vùng nhiệt đới. Hai người sẽ chạy nhảy dưới những rừng dừa cao, hay trên những bãi cát trắng, không dấu chân người. Cùng tắm ở những vũng biển san hô với những đàn cá bơi giỡn đủ màu. Sáng đến, chờ nắng biển Đông đánh thức để nghe tiếng chim rừng hót ngoài cửa sổ. Chiều xuống ngồi trên ghềnh đá ở biển Tây nhìn cảnh hoàng hôn rực đỏ chân trời. Lúc đó, hai người sẽ chắc chẳng còn gì để nhớ.
Anh yêu hòn đảo và sự tự do. Hàng ngày, anh nghe đài phát thanh tiếp vận từ Saigon loan tin thời tiết: ‘’Hôm nay, Phú Quốc trời nhiều mây, hay có mưa...’’, nhất là lúc đó ca sĩ Lệ Thu hay hát nhạc của Đoàn Chuẩn và Từ Linh, trong đó có câu: ‘’Nhớ tới mùa thu năm xưa, mình anh lênh đênh rừng cùng sông, chiếc lá thu vàng dần rơi...’’, anh tin rằng nàng cũng đang nghe và đã nhắc nhở nàng nhớ đến anh ở một nơi tận cùng của đất nước...
Mọi người trên ghe đều yên lặng. Tự nhiên, anh lại nghĩ đến những sự mệt mỏi và vô vọng của một cuộc chiến tranh dài đằng đẵng. Anh mong rằng, trong giây phút này, mọi người cũng đang mơ màng và cũng đang có những giấc mộng đẹp như anh. Anh không dám cựa mình, và để từ từ lịm dần trong giấc mơ mà mình đang sống...
*
Anh lấy thuyền đi Cửa Cạn. Những ngày trời yên biển lặng, thường có cá heo bơi đến giỡn sóng đua cạnh thuyền. Đôi lúc anh có thể lấy tay xoa đầu nhẵn bóng của chúng. Lúc vào Cửa Cạn, mọi người thường không dám ngồi lì trên thuyền để vào tận ấp, sợ Việt Cộng trên núi bắn xuống, thường phải lội qua cồn cát rồi gọi ghe sang đón.
Có lần đến, họ cho anh xem một con cá sấu lớn bốn người khiêng còn nặng, bị trói gô dọc theo một thân cây lớn. Con sấu này, ít lâu nay thường đến phá chỗ con lạch mọi người tắm giặt. Họ cố dùng súng bắn đuổi mà không được. Sau đó, họ lập mưu, làm một lưỡi câu lớn, buộc vào mình một con vịt thả trên dòng nước. Dây câu là một cuốn thừng nylon không thể đứt. Chờ đến nửa đêm, lính trong đồn canh nghe tiếng quẫy nước ầm ầm, dọi đèn biết là con sấu đã cắn mồi và mắc câu. Nó mạnh quá, vùng vẫy nhổ luôn cọc thuyền và kéo chiếc tam bản theo con lạch vào sâu trong đảo. Sáng ra, mọi người đem súng ống, để đề phòng Việt Cộng, theo ghe máy ngược dòng đến hai ba cây số mới tìm thấy dấu vết. Sau một hồi vật lộn, hết hơi, mãi mới chụp nổi nó.
*
Ấp Cây Dừa nằm dưới phía Nam đảo, gồm căn cứ chỉ huy Duyên Khu 4, một sân bay quân sự và một số dân cư. Dân chúng trong ấp ngoài số nhỏ là dân địa phương, còn lại phần lớn là dân di cư Ba Làng từ miền Bắc Trung Việt vượt biển vào Nam tìm tự do năm 1954.
Lần nào đến ấp, anh cũng thường đến thăm cha xứ Hoàng Văn Cung trước, cha rất vui tính và thế nào tối đó cũng được cha khoản đãi món cháo gà do ông trưởng ấp Niệm làm. Có khi lại được ăn món ‘‘Biên Mai’’ một loại nghêu rất ngon do mấy người bạn bên Hải Quân mời đến nhậu.
Toàn ấp, kể cả căn cứ của duyên khu đều trông cậy vào sự bảo vệ vùng ngoài của một trung đội nghĩa quân, hầu hết là dân công giáo, trang bị vũ khí cơ bản, nhưng du kích địa phương cũng rất ít khi đến trêu chọc.
Anh nhớ lại những buổi chiều ở Cây Dừa, anh thường lang thang một mình đi bộ ra sân bay, đứng trên những vỉ sắt ở đầu phi đạo, nhìn những đám cỏ may trên những cồn cát phía biển chạy vờn theo gió về phía cuối đảo, tự nhiên làm cho anh thấy một cái gì mong nhớ xa xôi. Hình như những đám cỏ may thường làm cho người ta gợi nhớ đến dĩ vãng
*
Anh sang phía Đông đảo, đến ấp Hàm Ninh, bờ biển nông và xoải dài, thuyền lớn thường phải đậu ngoài xa và chờ ghe nhỏ ra đón. Ấp có độ dưới một trăm dân và một trung đội địa phương quân mà quân số chắc chỉ có một nửa sống trong một vòng đai nhỏ hẹp. Đứng ở đâu trong ấp cũng thấy hàng rào chiến lược gần ngay trước mặt, cứ lớ ngớ là rất dễ bị Việt Cộng bên ngoài bắn sẻ. Vì thế, sau này đi đâu xa, anh thường được khuyên là nên mặc bà ba đen, đừng mặc quần tây áo trắng. Có những lúc anh ngồi họp với hội đồng xã và đồn trưởng, anh tưởng tượng như đang sống trong cái thời của phim ‘Bảy Chàng Hiệp Sĩ’’ của Nhật.
Những bữa ăn do hội đồng xã thết chỉ toàn là ghẹ. Anh chưa thấy có những con ghẹ ở đâu ngon như ghẹ Hàm Ninh, to gần như con cua, nó đỏ như gạch, thịt đầy và ngọt lừ. Họ cho anh ăn hết ghẹ luộc, ghẹ rang muối rồi cả đến cơm ghẹ v.v... Còn những nồi nghêu, buổi chiều họ đi cào về trắng phau, đầy đặn ăn thật tuyệt. Có lần họ mang về một con rít, đó là một loài rùa biển to gần đến một thước, ăn tàm tạm được, nhưng không được ngon như những con rùa nướng ở Cần Thơ hay Long Xuyên.
Những ngày ở đó, mỗi khi xong việc anh phải chờ ghe đến đón, nên rỗi rãi. Anh hay đi nhặt các đầu khỉ khô, trắng nằm trên cát sau nhà của các tay thợ săn, rửa cho sạch sẽ trông như những cái đầu lâu tí hon rồi gởi về cho các bạn ở Saigon.
Nhiều lần anh theo Thiếu Úy Bình, đồn trưởng, đi sâu vào đảo săn thú. Anh ta là một tay thiện xạ, bắn được rất nhìều thú rừng thường mang về cho lính và dân trong ấp ăn, nhưng chẳng bao giờ anh ta ăn cả. Có lần gặp một đoàn khỉ, bị lùa lên một cây giữa khoảng trống, chúng hốt hoảng, nhảy chuyền từ cành này sang cành nọ. Lính ở dưới cứ việc nhắm và bắn rụng từng con rơi bồm bộp trên đất. Đứng nhìn thấy thật là thương, khiến anh phải bảo họ thôi đừng bắn nữa.
Một lần bắn được một con nai đang nhú sừng non, người ta thường gọi là nhung non; một anh lính bèn cắt ngang và hút. Không hiểu chất đó bổ đến mức nào mà làm anh ta lăn quay ra như người bị say rượu.
Nhưng mệt nhất là đuổi theo mấy chú heo rừng, chúng rất khỏe, chạy nhanh và luồn cũng khéo. Có lần, anh chạy theo Thiếu Úy Bình hụt hơi và lạc luôn. Rừng lại khá rậm, lúc có một mình, định phương hướng tìm đường về ấp, nghĩ đã chẳng săn được con nào mà bị Việt Cộng săn lại thì thật là lãng nhắch.
*
Anh rời Hàm Ninh đi lên ấp Bãi Bổn. Ấp này nằm phía ven Đông Bắc của đảo, bất an vì chưa lập được hàng rào chiến lược. Thường thuyền phải đi vòng xuống phía Nam rồi ngược lên, hơi xa, nhưng an ninh hơn nếu đi vòng lên phía bắc từ Dương Đông bằng tàu nhỏ. Lúc đi gần giữa eo biển nhỏ giữa Việt Nam và Cam Bốt, chỉ sợ Việt Cộng trong đảo bắn ra, và nếu có gặp chiến hạm của Cam Bốt ăn hiếp, đổ thừa là vi phạm hải phận cũng chẳng có ai làm chứng.
Lúc ngồi bập bềnh trên ghe, chờ thuyền nhỏ ra đón, anh nhìn vào khu rừng dừa của ấp Bãi Bổn chạy dài theo ven biển, thấp thoáng một vài căn nhà lá và những bóng người. Đôi lúc anh tưởng như có những người trai mình trần, lực lưỡng đang sửa soạn đánh những tiếng trống bập bùng và những cô gái đảo đang sửa soạn những vòng hoa để quàng vào cổ những khách lạ.
Càng sát bờ, biển càng nông. Mọi người thường phải xuống lội nước một quãng khá xa. Biển ở đây có rất nhiều con đồn đột đen và những con sao biển màu đỏ nằm xoải năm cánh trên cả một vùng cát.
Thường thường đến ấp này anh hay đi với Đại Úy Hùng, chỉ huy trưởng địa phương quân trên đảo, và một toán thám báo mà đến một nửa là người Việt gốc Miên. Lần nào, cũng đến tạm trú tại nhà một ông già quắc thước ở giữa ấp, hình như có cái tên là Tám Vân. Nói là tạm trú, nhưng không ai nằm ở trong nhà cả, chỉ nhờ bếp để làm bữa ăn. Anh nghe đâu, ông Tám Vân hồi trước đã từng là đầu đảng cướp biển, nhưng được một cái là ông hay phân phát lại cho các kẻ nghèo.
Ấp Bãi Bốn cũng không có quá nổi một trăm dân, chưa có tổ chức hành chánh, cũng không có một lực lượng nào bảo vệ, lại quá bị cô lập. Dân chúng ở đây, trước kia thường giao dịch với các thành phố ven biển của Cam-Bốt hơn là với Việt Nam.
Những chiều ở đó, anh thường lội nước dọc theo những hàng dừa hay ra ngoài xa nhặt những con sao biển cho đến khi gần tối, hôm nào trời trong có thể nhìn thấy le loi ánh đèn trên đỉnh núi Bokor của Cam-Bốt mới trở về. Buổi tối anh và Đại Úy Hùng thường ngồi trên nhà sàn, dựa lưng vào những ba-lô ngồi uống nước nhìn ra biển tối ngoài xa, và nghe những tiếng đêm ở xung quanh vọng lại.
Đại Úy Hùng hơn tuổi anh, hay nói chuyện gẫu, có lần anh ta tâm sự:
- Mình sinh ra mãi tận ngoài Bắc mà không hiểu sao lại phải đến tận chỗ này. Hồi 1946, tôi là tự vệ thành rồi theo kháng chiến chống Pháp. Mãi sau mới trở về Hà Nội, học hành dang dở, kiếm việc không ra bèn vào làm sĩ quan Bảo Chính Đoàn. Khi ấy chỉ huy các đội khinh binh, đóng hết đồn này đến đồn khác trong vùng châu thổ sông Hồng. Nhiều lúc mất đồn, chạy dài chỉ còn quần xà lỏn.
Anh thấy hồi đó càng thua, càng chạy thì bây giờ Đại Úy Hùng lại là người có nhiều kinh nghiệm chiến trường. Từ ngày đến đảo, anh ta đã làm cho du kích địa phương nhiều trận xiểng liểng, mà lính không bị chết. Hàng ngày đối diện với du kích, Đại Úy Hùng như muốn dở trò chơi đấu cờ với chúng, lúc đánh dữ, lúc đánh lừa, đi một nước nhưng tính đến ba bốn nước khiến chúng không biết đâu mà lường. Có lần lừa bắt được viên Huyện ủy, trong lúc sửa soạn giải về tỉnh thì hắn ta tự sát trong phòng giam.
Mỗi lần ở ấp này, trước khi đi ngủ, Đại Úy Hùng thường cắt đặt toán thám báo nằm ở các bờ bụi xung quanh và cố ý nói to để cho Việt Cộng đâu đó biết là sẽ nằm trong nhà ông Tám Vân. Lúc vào nhà, anh và Đại Úy Hùng cũng cố nói chuyện thật lớn một hồi lâu, rồi cả hai cùng lén ra ngoài bụi nằm. Ngay cả toán thám báo cũng không biết chỗ nào nữa.
Sáng sau, mọi người đi nghiên cứu địa thể để lập ấp chiến lược. Dân thì ít, ấp thì trải dài. Di dân vào một chỗ cũng rất là phiền, mất nhiều công. Sau khi nghiên cứu và vẽ họa đồ xong, hôm sau có thuyền đón trở về quân để lập kế hoạch.
Lần nào rời ấp Bãi Bổn, lúc ngồi trên ghe, nhìn lại đám dừa xanh, anh cũng tưởng như chắc lần này là lần cuối anh còn có thể đến được nơi này. Theo anh, nếu cứ để nguyên như thế này thì may ra còn ấp, nếu đã cố làm hàng rào chiến lược, thì Việt Cộng chắc không để yên, tiếp cứu cũng chẳng nổi, và ấp sẽ tan tành. Nhưng chính sách của chính phủ đã có, chỉ tiêu đã đề ra và quận cứ việc thi hành...
Lần đó trở về quận, anh viết được một bài tùy bút dài ‘’Mây Bay Qua Đảo’’, với tất cả tấm lòng yêu đảo cho đặc san Phú Quốc. Bài tùy bút này sau khi anh rời đảo, họ vẫn còn mang ra đăng đi đăng lại nhiều lần.
Còn tiếp
Nguyễn Công Khanh