
(Tiếp theo)
Chuyện nợ duyên của tôi còn đang nhùng nhằng giống như hội nghị Ba Lê giằng co ba cái vụ bàn tròn với bàn vuông chưa đâu tới đâu thì đã được lệnh gọi trình diện nhập ngũ. Ðời trai của tôi tạm thời được “án treo” gác qua một bên, tôi ăn vội vàng thêm mấy bữa cho hết nồi xà-bần của má tôi rồi khăn gói lên đường vô Trại Nhập Ngũ số 3, tiếp tục con đường tầm sư học đạo. Nhưng mà lần này thì chẳng ăn nhằm gì đến nghề dạy trẻ. Bộ Giáo Dục sau khi cho đám tụi tôi nếm nhắp nháp chút đỉnh mùi phấn trắng chắc sực nhớ lại xứ mình là xứ chiến tranh cho nên lật đật ra lệnh triệu hồi cho đi nếm thêm mùi thuốc súng ở trường Bộ Binh Thủ Ðức. Thiệt là tréo ngoe cẳng ngỗng. Ðiệu này chắc phải luyện thêm món Song thủ hổ bác của lão Châu Bá Thông một tay vẽ vòng tròn một tay vẽ hình vuông mới chịu nổi. Mới sửa soạn thủ bộ đi yêu thương người thì lại được kêu đi học thêm chuyện giết người. Có xứ nào như xứ này không? Người nào cũng kiêm một lượt đủ thứ nghề, mà không có nghề nào ăn khớp với nghề nào hết. Tướng tá thì một tay cầm binh một tay cầm quyền. Thầy tu thì một tay cầm mõ một tay cầm biểu ngữ. Thầy mổ thì một tay cầm dao một tay cầm viết. Thầy thuốc thì một tay cầm ống chích một tay cầm ống loa. Thầy giáo thì một tay cầm phấn một tay cầm súng. Sao mà quê hương tôi lắm thầy nhiều việc như vậy. Xứ giặc giã coi bộ thiếu người thành ra cũng dễ tánh, để mặc ai muốn làm gì thì làm, nhớ tới đâu làm tới đó, có trật trịa thì sửa lại mà không sửa thì cũng không sao, của công chớ bộ của ông cha gì sao mà tiếc rẻ.
Ðến kỳ này thì thiệt là xếp bút nghiên theo việc đao cung rồi. Ðã bảo mà chạy trời đâu có ra khỏi nắng. Nhất là cái nắng của đồi Tăng Nhơn Phú thì ngặt nghèo còn hơn thiên la địa võng nữa. Nó không chừa chỗ nào hết, cứ nhuộm đen giòn hết cả mặt mũi tay chân khiến anh nào anh nấy tối hù như chà-và quảng cáo kem Hynos. Còn sức thầy giáo thì thuộc loại trói gà không chặt mà bây giờ cũng tăng lên đến mấy thành công lực. Ba bốn năm học văn thêm hơn chín tháng học võ, kỳ này tôi có thể tự hào là văn võ song toàn, mình mẩy cứng như sắt nguội chẳng kém gì Tiết Nhơn Quý hết chinh Ðông rồi lại chinh Tây. Không khéo kỳ này trở lại mái trường xưa có mòi khép cái đám nhí nhố đó vào kỷ luật sắt, thầy trò ra tay biến học đường thành “tiền đồn của thế giới tự do” không chừng. Chỉ tiếc có một điều là sau khi bỏ tiền ra cho ăn học thêm một mớ bài vở rất “nổ“, cái bộ có đủ thứ chuyên viên nghiên cứu chương trình và hoạch định kế hoạch lại ra lệnh triệu hồi mấy thầy-Chuẩn-Úy trở về trường cũ dạy học lại y chang như cũ, không thêm bớt một mảy may nào hết. Mà phải lâu lắc gì cho cam. Mới bữa trước còn ôm súng “đường trường xa” mồ hôi con mồ hôi mẹ gì rơi lộp độp thì bữa sau đã được lệnh triệu về trường cầm phấn “vẽ người tang thương” cho đám học trò thưởng thức. Ðiệu này mà miệng mồm không lẹ làng là cà lăm như chơi. Mới ôn mấy bài tấn công với phục kích chưa kịp tiêu hoá là quay phắt lại với lục bát Đường thi. Cứ làm như trí óc con người là cái tủ thuốc Bắc của mấy ông Đông y sĩ. Thuốc nào để y ngăn nấy. Cam thảo trần bì thục địa thò tay vô bốc là trúng phóc, đúng ngay cân lượng, không có được lôi thôi. Nhưng mà thôi lo chi cho mệt, mấy ông mãi võ Sơn Đông quảng cáo cao đơn hườn tán có khi nói qua nói lại nói trật hoài đó thì sao. Có gì thì đổ lỗi cho chiến tranh. Hễ có giặc thì có “giả” vậy đó.
Mãn khóa Thủ Ðức, đeo cái lon Chuẩn Úy chưa kịp ố, đã được lịnh xếp cất bộ đồ lính, tôi trở lại trường sau non một năm vắng mặt. Trong bụng như có chút hờn mát sao thấy ai nấy đều “môi cười xanh mắt biếc” còn tôi thì đen đúa, tóc tai ngắn ngủn đến nỗi có ai chơi cắc cớ lấy hai tay mà nắm chắc cũng chẳng thèm dính sợi nào. Nhưng mà bình tĩnh một chút tôi thấy mình sao lãng nhách. Có ai mắc mớ gì tới cái chuyện lính tráng của tôi đâu. Số trời kêu ai nấy dạ, người chín tuần, người chín tháng, người chín năm thì sao. Còn mấy cô thì yêu kiều kiểu cách là cái vốn. Phái đẹp mà không chịu đẹp thì mới là cái tội chớ. Vả lại đời có đẹp thì người ta mới có lý do mà cực khổ. Mấy ông Tàu già hồi xưa khó dàn trời mây mà còn lấy người đẹp ra dụ học trò đó thì sao? Thư trung hữu nữ nhan như ngọc. Ráng học đi con mai lấy người đẹp. Học mà không ráng là có đường gá nghĩa với Chung Vô Diệm. Chừng đó có hối thì cũng đã muộn màng.
Trả tôi lại đời dân sự, nghĩa là trở lại với cái thế giới còn đầy hoa mộng của đám học trò mới lớn bỗng nhiên tôi khám phá ra một sự thật mà từ lâu tôi vẫn cố chối cãi với mình. Tôi rất yêu thương cái đám nhân loại tí hon đó. Những đứa trai gái mười lăm mười bảy, non như mụn măng, tươi như lá cỏ, những đứa em trai gái tội nghiệp của tôi đang lớn lên một cách vô tình trong cơn mưa súng đạn. Mai mốt đây, vô tư hay không các em cũng chỉ là nạn nhân mù lòa của con quái vật chiến tranh. Sách vở, bài học bài làm bây giờ rồi cũng có che đỡ được gì cho em đâu. Dạy cho em yêu thương, dạy cho em nhân ái cũng giống như gọt tà bộ móng vuốt tự vệ, chuốc mòn bản năng sinh tồn rồi ném em vào biển lửa. Tội tình em, đám em nhỏ của tôi, em lấy gì chống chỏi với cơn lũ cường toan đó. Tay em nhỏ quá làm sao che cho em khỏi ướt giữa cơn mưa bão của lòng người. Tôi có làm được gì cho em đâu, ông thầy của em mà em tin cậy hết sức, bài giảng của tôi rồi cũng chỉ là những lời gian dối dù rằng lòng tôi rất đỗi thực tình. Tại vì cuộc đời thực có giống gì với bài học của em đâu. Trường học đã trở thành một thứ ốc đảo tưởng tượng giữa một cõi đời sa mạc có thật. Thật tình mà nói tôi cũng biết văn chương này nghệ thuật nọ chỉ là đồ bỏ trước sự hăm dọa của một mũi súng hay một lưỡi dao găm. Chúng ta đang sống giữa thời đại của những kẻ giết người mà mọi giá trị tinh thần chỉ là hoa lệ xa xỉ. Sự cố gắng của tôi và em không chừng sẽ là một thất bại mà người gánh chịu chính là em, em nhỏ của tôi. Nhưng mà tôi có làm gì hơn được đâu, tôi và em cũng chỉ là những con ốc hèn mọn trong cái guồng máy bất nhân vô đạo mà dân tộc ta đã gánh chịu từ bao nhiêu thế hệ rồi. Sự nhận thức bất chợt đó đưa tôi gần lại với đám học trò của tôi hơn, với những khốn khó của quê hương mà lâu nay tôi vô tình quên lãng. Chơi trò súng đạn mới có một lúc mà như có sức kéo tôi về tới thực tại, bắt tôi trực diện với chính nỗi đoạn trường mà anh em tôi, đồng bào tôi đang gánh chịu ở chung quanh. Sao tôi thấy dường như lâu nay mình hờ hững đến tệ bạc. Ðến lúc cầm cây súng lội năm bảy cây số mới biết khúc sắt đó nặng như thế nào. Ngửi chút mùi thuốc đạn mới biết rõ cái mùi chết chóc mà mấy chục năm nay bà con mình chịu đựng nồng nặc đến đâu. Chiến trường đâu chưa thấy chỉ thấy bỗng dưng lòng tôi trở nên lộn xộn như cái võ đài. Lương tâm như tên võ sĩ vô địch ngủ quên lâu nay bỗng nhiên chồm dậy thoi cho tôi mấy cú như trời giáng. Sao bỗng nhiên tôi thấy cái nghề dạy học của mình như một ân phước mà tôi đã khước từ một cách bạc bẽo. Tôi không làm được cho xứng đáng hơn cái chỗ bình yên mà anh em tôi đã dành cho tôi sao? Không có ông chúa nào trong lòng tôi hết mà tự nhiên tôi muốn làm kẻ tông đồ vác thập giá. Ðể chuộc lại những phí phạm của tuổi trẻ và cho tôi được trả lại ân nghĩa của đời này.
Bỗng dưng như phép lạ, tôi thấy tôi yêu nghề hết sức. Cái nghề giáo mà tôi từ chối và giễu cợt từ lâu nay. Rất bất chợt tôi tìm thấy cho tôi câu trả lời. Tôi biết tại sao má tôi cặm cụi hết năm này sang năm khác, bốn mươi năm liên tiếp, vẫn cuốn sổ cặp nách, chiếc áo dài đơn sơ và nếp sống đạm bạc hằng ngày đi đến trường đôn hậu như đóa sen, dạy dỗ chân tình như không có chuyện gì xảy ra ở bên ngoài cửa lớp. Học trò đến rồi đi từng lứa, bà giáo ở lại đó cỗi xuống như nhánh tre già nhưng vẫn thong dong ở đó, chờ đợi và đón đưa. Sao tôi thấy má tôi mạnh hơn tôi tưởng trong cái xác gầy như mai, tấm thân mỏng như lá lúa. Cũng như ba tôi, như bao nhiêu thầy cô khác nữa, đã sống và dạy một cách hồn nhiên như ăn và thở. Ðời họ gắn liền với học trò như hình với bóng, hai mươi năm, ba mươi, bốn mươi năm nhẹ tênh như hơi gió. Cái sức sống của những người thầy cô già giống như luồng nhựa đặc quánh của những đời cổ thụ, tiềm tàng nhưng mãnh liệt, chảy miên man trong tấm thân khô oằn. Ðó là nguồn sống được tái tạo hằng giờ hằng phút từ cặp mắt thơ ngây không ngớt tìm kiếm, và nhất là từ những tấm lòng son trẻ háo hức học hỏi. Cái sức sống được làm mới lại luôn luôn từ nỗi hạnh phúc cho đi mà không chờ nhận lại. Tôi chớp liền cái khám phá tuyệt vời này để bắt đầu lại cuộc đời đã quá hư hỏng của tôi. Cứ cho đi đừng chờ nhận lại. Câu thiệu này tôi tụng hoài trong đầu mỗi khi gặp chuyện bực mình. Bởi vì đám học trò không phải lúc nào cũng ngoan ngoãn và thuần phục. Mấy con ngựa con háu đá đôi lúc cũng chứng như tôi mươi năm trước. Nó cũng sẵn sàng đá móc không thèm báo trước, lớ quớ là né không kịp. Nhưng mà có sao đâu em nhỏ. Có nhằm nhò gì ba cái trò láu lỉnh của em đâu. Ðời nó giần mới sợ chớ còn chuyện phá phách của học trò thì cũng như mấy móng tay non quào quào ngoài da vậy, trầy trụa chút đỉnh cho biết mùi đời chớ có chết ai đâu mà sợ. Dạy học mà không tha thứ được thì chẳng thà đi làm ruộng, làm thư ký, đi bán lẻ, làm ca sĩ tài tử hay gì gì cũng được kể cả đi buôn lậu chớ đừng đi làm thầy. Sao có lúc tôi muốn xóa cái khoảng cách biệt lập giữa thầy và trò để thay bằng một tương quan thong thả, trong suốt, tin cậy giữa hai thế hệ. Tôi sẵn sàng từ chối hết mọi đặc lệ mà xã hội đã dành cho người thầy để chỉ giữ vai trò của một người dẫn đường dìu dắt cho kẻ đi sau, không mặc cảm tự tôn hay tự ti, không bằng kỷ luật mà bằng tự nguyện, bởi vì đối với tôi, con người chỉ phát triển được toàn vẹn trong ý thức và tự do. Tôi có thể tin cậy ở lớp trẻ được lắm chứ nếu đem sự thành tâm ra mà đối đãi. Giữa một xã hội lầm lì cố chấp, tôi giống như một hiện tượng quái dị, không giống ai. Bạn đồng nghiệp nhìn tôi như người đến từ một hành tinh lạ. Mặc kệ họ, ai đi đường nấy, tôi vốn là thằng “nổi loạn” từ trong bụng mẹ.
Vậy đó tôi trở lại nghề với một niềm tin mới. Sự gần gũi hằng ngày với học trò trả lại tôi tuổi trẻ cùng lúc với nỗi bào hao rất lạ. Làm như có cái gì thôi thúc kéo tôi ra khỏi tháp ngà, bắt tôi cúi xuống, đến gần, nhập vào cái thế giới đồng dạng một cách rất là lộn xộn đó. Tôi lắng nghe những âu lo, những thắc mắc, những khó khăn, những buồn vui của họ… Có lẽ cái bộ vó bụi đời đã đưa tôi dễ dàng len vào những cửa hồn khép rất lơ đễnh này. Nhờ vậy tôi khám phá được một điều là không phải đứa học trò Trung Học nào đến trường cũng thoải mái vô tư như chiếc áo đồng phục trắng tinh. Ở đằng sau những khuôn mặt trẻ trung đã thấp thoáng những nỗi buồn trước tuổi. Cuộc chiến tranh này có bỏ sót ai đâu. Tôi biết những em gái cha mẹ bị bom đạn chết hết phải sống nhờ cô dì, đổi miếng cơm ăn học bằng chuyện giữ em gánh nước. Tôi biết những em trai tối tối xuống bến cảng lựa cá từ khuya đến năm sáu giờ sáng. Tôi biết những đứa học trò hằng ngày đạp xe đi học cả chục cây số, đêm về che đèn làm bài mà chỉ chực chờ nhào xuống hầm trú ẩn khi có pháo kích. Tôi làm gì đây khi buổi sáng trên bục giảng có một bài làm không soạn, một bài học không thuộc kề bên một cặp mắt đỏ hoe phờ phạc, một cái đầu ngủ gà ngủ gật? Tôi làm được gì đây?… Ðồng thời ở đó tôi cũng bắt gặp luôn những mơ mộng của lứa tuổi trăng tròn, những mắt nhìn thầm lén, những trao đổi vụng trộm… của những “người tình tập sự”. Tôi bỗng thấy như mình có diễm phúc được làm chứng nhân cho một giai đoạn chuyển tiếp gần như quan trọng nhất của một đời người. Học trò của tôi, những đứa trai gái mười bảy đôi mươi đang ngập ngừng thay đổi như con sâu đang lột vỏ để hoá bướm. Tôi thích thú với những quan sát bất ngờ rồi tự dưng muốn được san sẻ với họ cuộc hoá thân kỳ diệu đó. Không ai xúi biểu, tôi nhảy vô gánh tiếp mấy cái chuyện hục hặc ở trong lòng hoặc ngoài cửa lớp. Bởi vậy mà có lúc tôi thấy mình thân cận với họ như một người bạn tâm tình. Từ chuyện học hành đến chuyện gia đình, xã hội rồi thêm ba cái chuyện gỡ rối tơ lòng kiểu bà Tùng Long nữa. Vậy mà kể ra cũng ăn khách lắm. Ðã có không ít những vụ xung đột với cha mẹ, bạn bè hay cả với bồ bịch nữa được thầy trò đem ra mổ xẻ cẩn thận. Ai cũng có một cái kho để cất giữ đồ lặt vặt ở trong lòng, chỉ có cái kho của tôi là ắp lĩm những cái không đầu không đuôi, lụn vụn lòn hòn của những “tâm sự thời mới lớn”. Vậy mà tôi làm cái vụ chuyên trị “ngoại khoa” này cũng rất tới. Ðôi khi thấy những cặp mắt thành khẩn, rồi thán phục của bầy em khác họ tôi khoái lắm. Tụi nó làm như tôi là tâm lý gia không bằng. Kể ra cái quãng đời bụi bặm, sớm sóng gió trong tình trường (cái này thì phải nói là rút tỉa từ trong mớ tiểu thuyết ba xu tình cảm xã hội đường rừng… mà tôi đã ngốn từ thuở mới mười lăm mười sáu, nhưng có hề gì cuộc đời này vốn dĩ cũng là một cái truyện dài đăng báo từng kỳ vậy thôi), đã giúp tôi không ít trong việc “chiêu hồi” những tâm hồn có nòi “nổi loạn” như tôi vậy. Tôi làm những việc ngoài bài bản nhưng chính nhờ vậy đã ven lại được một số đứa lạc bầy. Miễn là cho nó đi trọn được con đường Trung Học căn bản rồi lớn lên ra sau đó thì ra. Chớ tôi còn làm gì khác hơn được đâu. Cái xã hội thời đó cũng như chiếc thuyền phá nước vậy. Nó chìm không biết lúc nào đó thôi. Ðừng nói đâu xa, ngay cái Bộ Giáo Dục thân ái của tôi cũng có đầy lỗ mọt. Ai đời trái đất quay vòng vòng đã tới độ chán chê, quần áo thì kéo lên tụt xuống không biết đã bao nhiêu kiểu và con người thay lòng đổi dạ không biết bao nhiêu lần rồi mà chương trình dạy và học vẫn chừng ấy điều. Vẫn y nguyên như cái thời Bảo Ðại còn làm trùm. Giặc giã bom đạn mù trời, lòng người tan hoang từ mấy kiếp, nếp tinh thần thì rối beng tới độ xô đẩy con người sống nhấp nha nhấp nhổm mà sách vở nhà trường thì cứ tà tà, lề mề như mấy cái tay áo thụng thì hỏi có con ma nào mà nghe được. Sống nay chết mai làm ai nấy thi nhau “yêu cuồng sống vội” mà Nửa Chừng Xuân với lại Hồn Bướm Mơ Tiên còn thủng tha thủng thẳng rụt rè tới độ “không dám cầm tay” thì làm sao đám nhỏ khoái cho được. Tụi nhỏ đọc sách mà cứ thấy như đang đọc chuyện của ông già bà cả đâu đâu, chẳng ăn nhằm gì đến nó. Trong khi ngoài đời thì cần viết cho gọn gàng lá đơn xin hoãn dịch hay “xin xỏ tình yêu”, trong lớp lại cứ lo bình bình giảng giảng mấy bài văn xuôi của Nguyễn Bá Học với lại Nguyễn Văn Vĩnh nặng chình chịch như thể đang nói lối. Chẳng áp dụng được một điều gì cho thiết thực. Trong khi đó, ngoài chợ sách có biết bao nhiêu tác giả và tác phẩm mới hay dàn trời mà không cho nói tới. Cái học và cái hành cách nhau tới chừng vài vạn dặm. Vậy mà không “nổi loạn” sao được? Ấy là mới nói tới cái môn tôi dạy thôi chớ còn rất nhiều điều khác cũng phải cập nhật nữa. Nhưng mà Bộ Giáo Dục vốn là vua chậm tiến nên chưa thấy rục rịch động đậy thì cuộc đời đã nhảy xa đến cả chục năm rồi. Tôi cũng làm tàng làm phách viết vài ba bản trần tình thư gởi cho sếp lớn sếp nhỏ nhưng rồi chẳng thấy ai thèm trả lời trả vốn. Bởi vậy, lắm khi lấy quyền làm tướng ở mặt trận, “tiền trảm hậu tấu”, lâu lâu tôi cũng tự ý chen vô giờ dạy một vài bài thơ bài văn hay mà tôi mới chớp được trên sách báo vừa xuất bản. Cho nó hợp tình hợp cảnh, đỡ buồn một chút những lúc dạy dỗ ở trường. Chớ còn cái chuyện ở ngoài đời thì thôi khỏi nói, nó hợp “gu” tôi hết sẩy.
(còn tiếp)