
I. Nguyễn Bá Trác Và Khúc Ca Phương Nam
Nguyễn Bá Trác, bút hiệu Tiêu Đẩu, sinh năm 1881, từng là quan nhà Nguyễn, và là nhà cách mạng theo đuổi phong trào Đông Du.
Dưới thời Pháp thuộc, ông từng làm qua các chức vụ Tá Lý Bộ Học rồi Tuần Vũ Quảng Ngãi, Thị Lang Bộ Binh, Tổng Đốc Thanh Hóa, Tổng Đốc Bình Định.
Tháng 08.1945, Việt Minh lên nắm chính quyền, ông bị xử bắn tại Quy Nhơn.
Ông giỏi Hán văn. Trong sự nghiệp văn chương của mình, ông cũng đã xuất bản hơn mười đầu sách thuộc thể biên khảo, sử và ký.
Trong hơn mười đầu sách ấy, đặc biệt hơn cả là quyển Hạn Mạn Du Ký, dịch nghĩa là, phiếm về chuyện đi đây đi đó bằng chữ Hán.
Sau đó, ông dịch qua Việt văn rồi đăng trên Nam Phong tạp chí (do Phạm Quỳnh sáng lập) liên tục từ số ba mươi tám đến số bốn mươi ba, năm 1920.
Khúc Ca Phương Nam, tên ban đầu của bài thơ Hồ Trường, nằm trong tập sách này. Và kể từ khi nó ra đời đến nay, một trăm năm có lẻ, thì tiếng vang của nó, những ngợi ca cùng sự yêu thích, ngưỡng mộ của triệu triệu độc giả, dành cho Nguyễn Bá Trác cùng bài thơ dịch sang Việt ngữ, chưa bao giờ ngừng lại, dừng lại.
******
II. Nguyễn Bá Trác Và Hạn Mạn Du Ký
Thiên ký sự Hạn Mạn Du Ký của Nguyễn Bá Trác có mười bốn chương cả thảy, và bài Khúc Ca Phương Nam, tức Hồ Trường này, nằm ở chương mười.
Hạn Mạn Du Ký, ghi lại cuộc hành trình kéo dài sáu năm, từ 1908 đến 1914, của tác giả, qua các nước Thái Lan, Trung Hoa, Nhật Bản. Tác phẩm không chỉ là những nhận xét về những vùng đất đi qua, lồng vào đó, còn là những phát hiện về cái mới, cái hay, để giới thiệu đến giới trí thức của nước nhà, hầu nghiên cứu, noi theo, đặng mà góp phần làm lợi cho Quốc Gia, dân tộc.
Tác giả cho biết thêm, vào năm 1912, lúc lưu lạc đến Thượng Hải (sau khi phong trào Đông Du thất bại), ông gặp một người đồng hương tên Nguyên Quân. Người này có giọng hát rất hay. Một đêm nọ, hai người đi uống rượu. Khi đã ngà ngà say, Nguyên Quân đứng dậy hát. Bàn bên cạnh, có một vị quan họ Lưu sang hỏi bạn ông Trác, chớ bài hát, ngài hát theo điệu gì mà hay quá vậy?
Bạn ông Trác bèn trả lời, điệu này là một điệu rất đặc biệt ở phương Nam. Vị quan bèn lấy giấy bút ra, xin ghi lại lời.
******
III. Hồ Trường Của Nguyễn Bá Trác Là Khúc Ca Hay Bài Thơ?
Theo nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân, “hồ trường”, là từ được Nguyễn Bá Trác dùng thay cho từ “thương”.
“Thương” ở đây có ba nghĩa:
Là cái chén uống rượu giống như cái tước, làm bằng sừng. “Thương” là chén đã rót đầy rượu. Khi chưa rót rượu vào thì gọi là “chí”.
Mời rượu người khác một cách kính trọng, người ta cũng dùng từ “thương”.
Tự uống rượu một mình, cũng là “thương”.
Theo nhà báo Vương Trùng Dương, thì “hồ trường” là nậm rượu, bầu rượu, hình dáng như trái bầu mà người xưa thường dùng nó để đựng rượu.
Còn theo nhà văn Phạm Thắng Vũ, thì “hồ” thuộc bộ sĩ, mang nghĩa cái bầu hay cái bình dùng để chứa chất lỏng. Và chữ “trường” hay tiếng Tàu, còn đọc là “thương” thuộc bộ giác, mang nghĩa chén đựng rượu.
Nam Phương Ca Khúc hiện có rất nhiều bản dịch. Mỗi bản dịch như thế, khác nhau, ít nhất cũng phải bốn, năm từ. Tuy nhiên, sự khác nhau này cũng không làm lệch lạc quá nhiều về nội dung.
Và cũng như rất nhiều nghi án văn chương khác, theo tác giả Hoàng Yên Lưu, Hồ Trường được cho rằng, đó không phải là bài ca hay ca khúc gì của phương Nam cả, mà đó chính là một bài thơ được Nguyễn Bá Trác sáng tác bằng chữ Hán, dành cho đối tượng chính là các quan triều Nguyễn, sau đó, ông mới dịch sang bản Việt ngữ, để bài thơ được phổ biến rộng rãi hơn.
Bài thơ nhằm bày tỏ nỗi lòng của một chí sĩ yêu nước, nhưng vì nghịch cảnh, không thể theo trọn con đường, mà từ đầu, mình đã chọn.
******
IV. Bài Thơ Hồ Trường
Bản gốc bài thơ, có tên là Nam Phương Ca Khúc, và được viết bằng chữ Hán. Khi dịch sang Việt ngữ, rồi lưu lạc trong dân gian, thế là cái tên Hồ Trường, chẳng biết từ đâu, do ai, lúc nào, gán vào khúc ngâm, thành thử, nói Nam Phương Ca Khúc thì người ta lắc đầu, chưa từng nghe, nhưng nói đến Hồ Trường, thì ai ai cũng gật đầu, biết chớ, biết chớ.
Ông Nguyễn Bá Trác dịch bài thơ ấy như sau:
Nam Phương Ca Khúc
Đại trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường
Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha phương
Trời Nam nghìn dặm thẳm
Non nước một màu sương
Chí chưa thành
Danh chưa đạt
Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương
Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang
Ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường
Hồ trường!
Hồ trường!
Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút, cát chạy đá giương
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng
Nào ai tỉnh, nào ai say
Chí ta ta biết, lòng ta ta hay
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây.
Bản dịch này do bà Tôn Nữ Lệ Ba, con gái của danh sĩ Nguyễn Bá Trác, cung cấp.
Khoảng năm năm trước, nhạc sĩ Tuấn Khanh cũng phổ nhạc bài thơ này. Tên ca khúc là tên của bài thơ - Hồ Trường.
******
V. Hồ Trường, Bài Thơ Việt Ngữ Trác Tuyệt Đầu Thế Kỷ XX
Kẻ trượng phu sống mà không lo xé gan, bẻ cật, lo giềng, lo mối cho đời, cứ lênh đênh bốn bể hoài, hỏi chớ quê hương, còn nhớ chứ, nơi đâu? Quay đầu trông về đất Nam, mịt mùng che phủ. Trời mây kìa, mải miết một màu sương: Đại trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường / Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha phương / Trời nam nghìn dặm thẳm / Non nước một màu sương.
Công trạng mãi chẳng thấy đâu. Danh thơm mãi cầu chưa đạt. Thời trẻ trung được bao nhiêu mà đầu đã trắng xóa lau. Trăm năm chí lớn chưa thành mà bóng tà dương đã neo đầy sớm tối: Chí chưa thành / Danh chưa đạt / Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc / Trăm năm thân thế bóng tà dương
Không có trống ư, thì gươm đây, vỗ vào bao gươm mà hát. Hát bậy hắt xằng, hát nghiêng cả bầu thơ. Chắt giọt rượu ra mà hỏi đất hỏi trời. Ai tri kỷ cùng ta, tri kỷ cùng ta, thì hồ trường chén cạn: Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi / Trời đất mang mang / Ai người tri kỷ / Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Rót về đâu, ta biết rót về đâu, khi quê hương vời vợi. Chí anh hùng, xa quá, biết về đâu: Hồ trường! / Hồ trường! / Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông ư, nước biển Đông trào cơn cuồng loạn. Rót về Tây ư, lênh láng trận mưa ngàn. Rót về Bắc ư, cát đá bao trùm tứ phía. Rót về Nam ư, trời Nam dậy bụi khói, đất bằng rung: Rót về Đông phương, nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng loạn / Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan / Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút, cát chạy đá giương / Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng.
Chí ta ta biết, lòng ta ta hay. Ta tỉnh hay ta say, cũng mình ta biết. Nam nhi, bốn phương tám hướng tang bồng, vẫy vùng ngang dọc. Hà cớ gì, sầu viễn xứ về dâng: Nào ai tỉnh, nào ai say / Chí ta ta biết, lòng ta ta hay / Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ / Hà tất cùng sầu đối cỏ cây.
Chỉ ai từng sinh ra trong thời loạn, thì mới có thể hiểu được phần nào, phận người ta, khi ấy. Không bỏ xác, không phơi thây, thì cũng lưu vong, biệt xứ. Quê hương còn đó nhưng khó thể về thăm. Nỗi cô đơn, nỗi hiu quạnh, biết tìm đâu, người thấu.
Thành thử, mới: hồ trường, hồ trường, ta biết rót về đâu?
******
VI. Hồ Trường, Bài Thơ Bi Tráng Của Một Tâm Hồn Kiêu Bạc, Là Nỗi Sầu Vong Thân Của Chí Sĩ Nơi Đất Khách Quê Người
Bà Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh, một nhà văn hóa, người chủ trương dùng chữ Quốc ngữ, thay cho chữ Nho, từng viết về Nguyễn Bá Trác như sau: Vào năm 1917, bên cạnh và đối với Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác quả thực đã đóng vai đàn anh, không chỉ vì tuổi tác, không chỉ vì bằng cấp Cử Nhân, mà còn là vì uy tín của một quá khứ mạo hiểm, đã khiến ông nổi danh là lịch duyệt.
Nhiều người không thích giai đoạn ông cộng tác với Pháp, và làm việc cho Phủ Toàn Quyền Đông Dương, nhưng không ai có thể phủ nhận được, Nguyễn Bá Trác là người đã có rất nhiều đóng góp trong việc khảo cứu các tác phẩm văn chương chữ Hán, đồng thời, ông còn là nhà văn, nhà thơ rất đỗi tài hoa vào đầu thế kỷ XX.
Và Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác, là bài thơ bi tráng của một tâm hồn kiêu bạc, là nỗi sầu vong thân của chí sĩ nơi đất khách quê người.
Khắc khoải, đau thương mà hào sảng vẫn ngất ngất trời phương ấy:
Hồ trường!
Hồ trường!
Ta biết rót về đâu?
Sài Gòn 13.05.2025
Phạm Hiền Mây
Nguồn: Fb Phạm Hiền Mây
 	 
		
	 
		
	 
		
	 
		
	 
		
	 
		
	 
		
	 
		
	 
		
	 
		
	 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					 
					