
Phận làm con cái chúng tôi lúc nào cũng muốn má chúng tôi sống bên cạnh để tiện việc chăm sóc lẫn thương yêu, mặc dù tình cảm giữa chúng tôi với má chúng tôi không đằm thắm cho lắm. Những ngày nhỏ dại và bắt đầu có trí nhớ, chúng tôi lúc nào cũng cảm thấy thiếu thốn tình mẹ con. Không biết tự lúc nào, cũng không biết má chúng tôi thấm nhuần đạo lý như thế nào, mà suốt ngày bà chỉ lo cho “chúng sanh” mà chẳng ngó ngàng gì tới chúng tôi. Có những lúc chúng tôi bất mãn, khiếu nại rằng “cảnh nhà thiếu thốn, con cái nheo nhóc bệnh hoạn má không lo, mà cứ đi lo cho những người ngoài đường vậy nghĩa là sao”. Má chúng tôi giải thích rằng “mình thiếu thốn mà vẫn giúp cho người khác mới đáng quí, chứ dư dả thừa mứa mới giúp đỡ người khác thì còn nói làm gì, vả lại trời sinh má ra để lo cho chúng sanh mà lại”. Lúc đó chúng tôi còn rất nhỏ, không thể hiểu thấu đáo những lời má tôi nói. Thằng em tôi nói với má chúng tôi rằng “xin má làm ơn hãy coi chúng con như chúng sanh, vì chúng con rất cần sự thương yêu chăm sóc của má”.
Má chúng tôi đối với chúng tôi xa cách làm sao. Ngược lại, những người xa lạ, những người được má tôi giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần thì thương quí má tôi biết bao. Bởi vậy, bạn bè chúng tôi ít khi nào nghe chúng tôi nhắc đến má chúng tôi, đến nỗi hồi mới qua Mỹ, có một người bạn lúc nào cũng chỉ nghe tôi nhắc đến ba tôi bèn hỏi “xin lỗi chị, má chị mất rồi sao, mà tôi không nghe chị nhắc tới bác gái bao giờ”. Tôi mới chợt nhận ra rằng thì ra trong thâm tâm tôi dường như lúc nào cũng vắng hình bóng của má tôi. Tại tôi bất hiếu hay tại má tôi đã tạo ra khoảng cách xa xăm đó…
Từ hồi nảo hồi nào, mỗi lần nghe đến những bài hát nào có mẹ trong đó, là tôi không thích một chút nào. Tôi chưa bao giờ cảm thấy “lòng mẹ bao la như biển Thái Bình” nó như thế nào. Tôi cũng chưa bao giờ cảm nhận rằng “mẹ già như nải chuối như buồng cau, như xôi nếp một như đường mía lau”….
Nhưng sau khi má tôi mất rồi, chúng tôi bây giờ đã lớn lắm rồi, chúng tôi đã già rồi thì đúng hơn, chúng tôi mới có được một chút hiểu biết về cuộc đời, về đạo lý, thì mới hiểu ra rằng những việc má tôi đã làm mà vì lòng nhỏ nhen, ích kỷ, chúng tôi cho là vô lý, thì chính là chân lý. Vô lý, vì ở nhà con cái đau ốm bệnh tật, má chúng tôi không ngó ngàng gì tới, lại suốt ngày đi lo lắng chăm sóc cho những người đau ốm ở đẩu ở đâu. Hỏi má chúng tôi tại sao kỳ vậy thì má chúng tôi bảo rằng ở nhà em tôi đau ốm bệnh tật má chúng tôi biết chắc là có người lo, còn những người khác không có ai lo thì má chúng tôi cần phải lo. Nhà có tiền hay không có tiền, má chúng tôi cũng cố xoay xở giúp đỡ những người nghèo khó, cho nên má chúng tôi được rất nhiều người quí mến kính trọng. Nếu tin vào một thuyết nào đó mà cho rằng mỗi con người sinh ra đều có một sứ mệnh, thì má tôi đã hoàn thành sứ mệnh một cách tốt đẹp, và má tôi đã tìm ra chân lý rồi vậy.
Má tôi qua Mỹ ở với chúng tôi được mười năm, thì bà đòi hồi hương. Ba chúng tôi mất đã lâu, bà không có lý do gì ở lại cái sứ Mỹ lạnh lẽo này, con cháu thì đi học đi làm suốt ngày, bà ở nhà thui thủi một mình buồn thúi ruột. Thế là bà gom góp tiền bạc trở về VN, tha hồ giúp người nghèo khó, sửa chùa sửa miếu, xây phòng phát thuốc, xây nhà trong sân chùa cho những người không có nhà có cửa có thể tạm trú trong một thời gian. Tiền chúng tôi gởi về bao nhiêu, bà chơi láng. Thỉnh thoảng, bà gởi cho chúng tôi cả cọc giấy chứng nhận đề tên chúng tôi, cho chùa này một chục cái hòm, cho chùa kia vài miếng đất. Chúng tôi đã biết chuyện nên bớt cằn nhằn, nhưng cũng vẫn xót ruột, vì vẫn muốn bà lo cho thân bà trước, rồi hãy lo cho thiên hạ sau. Chúng tôi tuy nói là đã thấu hiểu đạo lý, nhưng vẫn chưa hoàn toàn giác ngộ, thì biết làm sao được. Chúng tôi cũng chỉ là “người trần mắt thịt” thôi mà…
Thế rồi ba năm sau má tôi ngã bệnh. Chúng tôi hốt hoảng tông về VN. Bà bị bán thân bất toại, nằm một chỗ. Bà đòi trở lại Mỹ. Chúng tôi dò hỏi, người ta đòi 20 ngàn dollars, sẽ có một toán người gồm bác sĩ, ý tá, thuê hẳn một khoang trong máy bay đưa má tôi về Mỹ. Tuy nhiên, rồi làm sao trở về Mỹ đây. Bà chưa có quốc tịch, bỏ đi lâu quá, bây giờ phải làm giấy tờ lại. Mọi người bàn, đưa bà trở lại Mỹ thì phải làm sao đây, để ở nhà thì không ai chăm sóc vì ai cũng phải đi làm đi ăn, bỏ vào nhà thương thì bất nhẫn quá, vả lại toàn y tá ngoại quốc thì bà nói chuyện với ai, con cháu thì giỏi lắm vài ba ngày mới vào thăm được một lần, thế thì thà ở lại VN còn hơn. Chúng tôi phải sắp đặt mọi chuyện, mướn được một chị to lớn khoẻ mạnh chuyên chăm sóc cho người bệnh, ở tại nhà ông anh chúng tôi, mỗi tháng chi phí ăn uống, chăm sóc, bác sĩ, thuốc men, massage hết 500 dollars. Được vài tháng bà không chịu ở nhà ông anh nữa, bà đòi vào chùa ở cho đỡ tốn tiền. Tưởng bà thương chúng tôi sợ chúng tôi tốn tiền, nhưng không phải, bà muốn lấy số tiền đó để giúp đỡ người nghèo. Thiệt tình đã nằm một chỗ rồi mà má chúng tôi cũng không chịu bỏ cuộc.
Nằm được một năm thì má chúng tôi đành phải bỏ cuộc. Ông anh báo tin bà đang hấp hối, chúng tôi gọi hãng máy bay giữ năm cái vé về VN gấp. Ngày hôm sau ra lấy vé, thì tin tức loan báo cả vùng Đông Nam Á, đang bị dịch SARS (cúm gà) lan ra rất mau lẹ, chúng tôi khựng lại chưa biết tính sao. Mọi người bàn ra tán vào rằng, đằng nào má tôi cũng sẽ qua đời, nếu chúng tôi ùn ùn kéo về, đúng lúc bệnh dịch đang lan tràn, có khi nào cả năm đứa chúng tôi đi theo má tôi không. Chúng tôi loại ra ba người, còn lại hai người tình nguyện đi là tôi với thằng em trai, thì tối thứ năm ông anh báo má tôi đã qua đời. Vậy phải lấy vé máy bay gấp, không kịp làm Visa, tới phi trường sẽ phải trả 120 dollars cho một người để làm Visa tại chỗ. Nếu thứ Sáu lên đường thì tới VN tối thứ Bảy, nhưng thứ Bảy và Chủ Nhật, văn phòng cấp Visa không làm việc, vậy phải chờ đến thứ Hai. Chúng tôi gọi về VN bảo đợi chúng tôi đến thứ Hai, nhưng ông anh bảo rằng không thể đợi, vì má chúng tôi về VN ở là ở lậu, tiếng mới bây giờ là ở “chui”, bây giờ má chúng tôi chết là chết chui, không thể khai báo, vì má chúng tôi không có “hộ khẩu”. Úi giời, má chúng tôi khi còn sống đã rắc rối, bây giờ chết cũng gây rắc rối. Vậy thì chúng tôi quyết định không đứa nào về nữa, vì đằng nào má chúng tôi cũng đã mất rồi. Khi còn sống chúng tôi đã hết lòng hết dạ lo cho bà, bây giờ cho dù có về thì cũng không thấy được mặt bà, vì ở VN không đợi được, đã khâm liệm rồi. Vả lại tuy là chỉ có hai đứa về, nhưng mà lỡ bị dịch SARS lây lan, có chuyện gì thì bỏ chồng bỏ vợ bỏ con lại cũng tội nghiệp lắm chứ. Chắc má chúng tôi cũng thông cảm, mà ở VN cũng còn mấy ông anh và mấy đứa cháu nội, có cả cháu cố nữa chứ, đâu phải không có ai.
Bây giờ tính tới việc chôn cất hay thiêu, phải làm như thế nào đây?? Khi quyết định hồi hương, má chúng tôi có nói rằng khi bà qua đời, bà muốn được thiêu, rồi cho hài cốt vào chùa, vậy thì quyết định thiêu. Nhưng mấy ông anh ở VN thì nói rằng trước khi qua đời, má chúng tôi trăng trối rằng muốn chôn, vả lại ở chùa cũng có hứa sẽ tặng má chúng tôi một miếng đất và một áo quan để tẩm liệm, vì bà làm công quả nhiều cho chùa khi bà còn sống. Đám con bên Mỹ thì vẫn nhất định muốn thiêu, đám con bên VN thì nhất định muốn chôn cho đúng với ý nguyện của má tôi. Chị Hai chúng tôi thực tế cho rằng mấy người anh ở VN muốn chôn để có cơ hội moi tiền của chúng tôi bên này. Chúng tôi thì nghĩ đâu đến nỗi tệ như vậy. Chị Hai tôi nói “rồi tụi mày coi”. Cuối cùng chúng tôi ở xa nên chịu thua, gởi tiền về cho bên đó làm đám táng. Bên này, chúng tôi đến chùa Pháp Vương xin làm lễ phát tang. Bên VN, các ông anh cúng bái đãi đằng hết ba ngày, có quay phim chụp hình đàng hoàng, nhưng đến khúc chôn cất thì không thấy đâu, hỏi ra thì hôm đi chôn trời mưa dữ dội, máy quay phim bị ướt nên không quay được phút sau cùng.
Bốn mươi chín ngày sau, bên VN cúng bái xong chụp hình gởi sang, chúng tôi giành nhau xem và ngỡ ngàng thấy ngôi mộ của má chúng tôi trông thảm hại quá, chung quanh cỏ hoang mọc um tùm. Ngôi mộ chưa thấy được đắp đất cao như những ngôi mộ chúng ta thường thấy. Mộ bia cũng không có. Trên nắp mồ là tấm xi măng để lăn lóc vài thứ hoa quả, không có được một cái mâm hay cái đĩa nào để đựng. Nói tóm lại, nhìn chung quanh không giống nghĩa trang mà trông giống miếng đất hoang. Thật tội nghiệp cho má chúng tôi. Thằng em trai chúng tôi, kể từ bữa đó nó không ngủ được, trong lòng thấy xốn xang không yên. Mấy tháng sau, nó chạy tót về VN, không cho những người ở VN biết. Ra tới chỗ chôn má chúng tôi, nó khóc quá trời. Nó kể rằng tuy ngôi mộ ở gần chùa nhưng không nằm chung trong nghĩa trang như những ngôi mộ khác, mà nằm hẻo lánh trong một miếng đất thấp, xung quanh là khu dân cư, nhà nào cũng nuôi heo nuôi gà, nên khi rửa chuồng heo thì nước chảy xuống chỗ trũng, mà ngôi mộ má chúng tôi lại nằm đúng chỗ trũng nên lãnh đủ tất cả những cặn bã của chuồng heo. Thằng em tôi giận dữ vào chùa hỏi cho ra lẽ. Nó nói rằng “khi còn sinh tiền, má chúng tôi đã hết lòng ủng hộ cho chùa, sửa sang chùa, xây nhà phát thuốc, xây nguyên một dãy chung cư giúp những người vô gia cư ở tạm v..v.., tại sao khi má chúng tôi qua đời lại đối xử với thân xác bà như vậy”. Người phụ trách nói rằng “đó là cái nghiệp của bà phải trả cho xong kiếp này, may ra kiếp sau được thảnh thơi hơn, vả lại khi cho miếng đất nhà chùa có gợi ý rằng nếu trả thêm tiền sẽ được nằm ở chỗ khang trang hơn, nhưng mấy ông anh ở VN không chịu chi thêm tiền”. Thằng em chúng tôi tức điên người. Chúng tôi chưa hề từ chối bất cứ khoản yêu cầu nào, thế mà mấy ông anh không biết nghĩ gì mà để má chúng tôi ra nông nổi này. Thế rồi, thằng em chúng tôi đề nghị với chùa là muốn bốc mộ má chúng tôi đem thiêu. Nhà chùa bảo không thể được vì mới chôn có sáu tháng làm như vậy không nên, tuy nhiên nếu muốn thì phải ra phường xin phép, mà lúc chôn má chúng tôi là chôn “chui” nên phường khóm gì cũng không có hồ sơ, thì làm sao mà xin phép, nên phải thế này… thế kia… mới ổn… rồi cả trăm thứ bà lằng nhằng v..v.. Thằng em chúng tôi hiểu ra rằng vì thấy nó là Việt kiều nên họ muốn làm tiền. Nó hẹn để suy nghĩ rồi sẽ trở lại chùa bàn tính tiếp. Về tới nhà bên vợ của nó, mọi người bu lại giúp ý kiến, và cuối cùng tìm được một nhóm người chuyên môn làm nghề chôn cất, họ có thể giúp thằng em chúng tôi được toại nguyện. Thế là ngay hôm đó, nó cùng mấy người em vợ sắm sửa lễ bộ trở ra mộ má chúng tôi cúng bái và xin phép má chúng tôi cho nó đem bà đi thiêu. Không biết má chúng tôi có bằng lòng không, nhưng nó cứ làm theo ý muốn của nó.
Ba giờ sáng hôm sau, lúc mọi người còn ngủ say, nó cùng hai người em vợ và nhóm người phụ trách chôn cất gồm có bốn người và người nhà chúng tôi tất cả là bảy người, đi ra chỗ ngôi mộ má chúng tôi đang nằm, đem theo một cái hòm trống. Trời tối đen nhưng cũng thấy lờ mờ nhờ những con đom đóm thỉnh thoảng bay xẹt qua. Cả bọn vừa đi vừa dò dẫm như mấy thằng mù hát xẩm. Gần tới nơi, mấy người em vợ của nó đề nghị nó đứng núp trong bụi rậm từ đằng xa, phòng hờ công an biết được ụp vào bắt, mà thằng em chúng tôi là Việt kiều thì nguy to. Thế là nó đứng từ đằng xa nhìn nhóm người xăm xăm tiến đến ngôi mộ má chúng tôi đang nằm, giở cái nắp xi măng ra, giơ cái cuốc chim đập bể nắp hòm rồi lôi má chúng tôi lên. Má chúng tôi, khi liệm họ dùng mấy lớp túi ni lông bọc lại chứ không dùng vải như ngày xưa, cho nên họ kéo từ đáy huyệt lên một cách dễ dàng. Nghe tới đây chúng tôi hỏi thằng em “mày có chắc là má không, nhỡ đào nhằm mộ người khác thì sao, nhất là ngôi mộ không có mộ bia gì cả”. Thằng em chúng tôi nói “em thấy đúng là má rồi mà”. Vì má chúng tôi vóc người to lớn nên cũng khó nhầm với người khác. Nó nói tiếp “khi lôi má từ đáy huyệt lên cái xác còn nguyên, tóc tai em dựng đứng lạnh đến run lên cầm cập”.
Bốn người bốn góc nhấc bổng má chúng tôi lên bỏ lọt thỏm vào cái hòm mới, đậy tấm xi măng lại y như cũ, không ai biết ở dưới đó bây giờ trống rỗng. Bốn người đậy nắp hòm lại, kê vai khiêng cái hòm mới có má chúng tôi trong đó, chạy phom phom đến nơi chuyên môn thiêu xác. Đã hẹn trước nên nhà thiêu đã sẵn sàng, vụt một cái đẩy tuốt cái hòm có má chúng tôi vào trong lò thiêu, đóng kín lại bật lửa cháy phừng phừng. Cả bọn thở ra nhẹ nhõm, mặc kệ má chúng tôi có bằng lòng hay không.
Nghĩ cũng lạ, má chúng tôi lúc còn sống là người rất độc tài, muốn gì thì muốn cho bằng được, lúc chết vừa muốn chôn, vừa muốn thiêu, bây giờ thì đã được cả hai.
Ngày hôm sau, thằng em chúng tôi tới nhận tro cốt đem tới ngôi chùa khác khang trang và có vẻ đạo hạnh hơn gởi má chúng tôi vào trong đó. Nó giận mấy ông anh ở VN định không báo cho mấy người đó biết những chuyện đã xảy ra, để xem họ sẽ giở những trò gì. Nhưng cuối cùng không nỡ, trước khi trở lại Mỹ, nó tới gặp mấy ông anh và nói rằng “tôi nói cho mấy anh biết rằng má không còn ở chỗ đó nữa đâu” rồi bỏ đi, làm mấy ông anh ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra……
Con nhỏ em gái út chúng tôi nghẹn ngào hỏi “lúc còn sống má làm nhiều chuyện từ thiện lắm mà, sao lúc chết lại ra nông nỗi này”. Tôi giải thích với nó rằng “những chuyện từ thiện mà má đã làm là để tích đức cho tụi mình, và có thể là cho má ở kiếp sau, còn những gì má phải chịu trong khiếp này, có lẽ là do phải trả cho kiếp trước”. Không biết tôi giải nghĩa như thế có đúng không, nhưng ít nhất cũng an ủi chúng tôi được phần nào…..
Má chúng tôi đối với chúng tôi xa cách làm sao. Ngược lại, những người xa lạ, những người được má tôi giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần thì thương quí má tôi biết bao. Bởi vậy, bạn bè chúng tôi ít khi nào nghe chúng tôi nhắc đến má chúng tôi, đến nỗi hồi mới qua Mỹ, có một người bạn lúc nào cũng chỉ nghe tôi nhắc đến ba tôi bèn hỏi “xin lỗi chị, má chị mất rồi sao, mà tôi không nghe chị nhắc tới bác gái bao giờ”. Tôi mới chợt nhận ra rằng thì ra trong thâm tâm tôi dường như lúc nào cũng vắng hình bóng của má tôi. Tại tôi bất hiếu hay tại má tôi đã tạo ra khoảng cách xa xăm đó…
Từ hồi nảo hồi nào, mỗi lần nghe đến những bài hát nào có mẹ trong đó, là tôi không thích một chút nào. Tôi chưa bao giờ cảm thấy “lòng mẹ bao la như biển Thái Bình” nó như thế nào. Tôi cũng chưa bao giờ cảm nhận rằng “mẹ già như nải chuối như buồng cau, như xôi nếp một như đường mía lau”….
Nhưng sau khi má tôi mất rồi, chúng tôi bây giờ đã lớn lắm rồi, chúng tôi đã già rồi thì đúng hơn, chúng tôi mới có được một chút hiểu biết về cuộc đời, về đạo lý, thì mới hiểu ra rằng những việc má tôi đã làm mà vì lòng nhỏ nhen, ích kỷ, chúng tôi cho là vô lý, thì chính là chân lý. Vô lý, vì ở nhà con cái đau ốm bệnh tật, má chúng tôi không ngó ngàng gì tới, lại suốt ngày đi lo lắng chăm sóc cho những người đau ốm ở đẩu ở đâu. Hỏi má chúng tôi tại sao kỳ vậy thì má chúng tôi bảo rằng ở nhà em tôi đau ốm bệnh tật má chúng tôi biết chắc là có người lo, còn những người khác không có ai lo thì má chúng tôi cần phải lo. Nhà có tiền hay không có tiền, má chúng tôi cũng cố xoay xở giúp đỡ những người nghèo khó, cho nên má chúng tôi được rất nhiều người quí mến kính trọng. Nếu tin vào một thuyết nào đó mà cho rằng mỗi con người sinh ra đều có một sứ mệnh, thì má tôi đã hoàn thành sứ mệnh một cách tốt đẹp, và má tôi đã tìm ra chân lý rồi vậy.
Má tôi qua Mỹ ở với chúng tôi được mười năm, thì bà đòi hồi hương. Ba chúng tôi mất đã lâu, bà không có lý do gì ở lại cái sứ Mỹ lạnh lẽo này, con cháu thì đi học đi làm suốt ngày, bà ở nhà thui thủi một mình buồn thúi ruột. Thế là bà gom góp tiền bạc trở về VN, tha hồ giúp người nghèo khó, sửa chùa sửa miếu, xây phòng phát thuốc, xây nhà trong sân chùa cho những người không có nhà có cửa có thể tạm trú trong một thời gian. Tiền chúng tôi gởi về bao nhiêu, bà chơi láng. Thỉnh thoảng, bà gởi cho chúng tôi cả cọc giấy chứng nhận đề tên chúng tôi, cho chùa này một chục cái hòm, cho chùa kia vài miếng đất. Chúng tôi đã biết chuyện nên bớt cằn nhằn, nhưng cũng vẫn xót ruột, vì vẫn muốn bà lo cho thân bà trước, rồi hãy lo cho thiên hạ sau. Chúng tôi tuy nói là đã thấu hiểu đạo lý, nhưng vẫn chưa hoàn toàn giác ngộ, thì biết làm sao được. Chúng tôi cũng chỉ là “người trần mắt thịt” thôi mà…
Thế rồi ba năm sau má tôi ngã bệnh. Chúng tôi hốt hoảng tông về VN. Bà bị bán thân bất toại, nằm một chỗ. Bà đòi trở lại Mỹ. Chúng tôi dò hỏi, người ta đòi 20 ngàn dollars, sẽ có một toán người gồm bác sĩ, ý tá, thuê hẳn một khoang trong máy bay đưa má tôi về Mỹ. Tuy nhiên, rồi làm sao trở về Mỹ đây. Bà chưa có quốc tịch, bỏ đi lâu quá, bây giờ phải làm giấy tờ lại. Mọi người bàn, đưa bà trở lại Mỹ thì phải làm sao đây, để ở nhà thì không ai chăm sóc vì ai cũng phải đi làm đi ăn, bỏ vào nhà thương thì bất nhẫn quá, vả lại toàn y tá ngoại quốc thì bà nói chuyện với ai, con cháu thì giỏi lắm vài ba ngày mới vào thăm được một lần, thế thì thà ở lại VN còn hơn. Chúng tôi phải sắp đặt mọi chuyện, mướn được một chị to lớn khoẻ mạnh chuyên chăm sóc cho người bệnh, ở tại nhà ông anh chúng tôi, mỗi tháng chi phí ăn uống, chăm sóc, bác sĩ, thuốc men, massage hết 500 dollars. Được vài tháng bà không chịu ở nhà ông anh nữa, bà đòi vào chùa ở cho đỡ tốn tiền. Tưởng bà thương chúng tôi sợ chúng tôi tốn tiền, nhưng không phải, bà muốn lấy số tiền đó để giúp đỡ người nghèo. Thiệt tình đã nằm một chỗ rồi mà má chúng tôi cũng không chịu bỏ cuộc.
Nằm được một năm thì má chúng tôi đành phải bỏ cuộc. Ông anh báo tin bà đang hấp hối, chúng tôi gọi hãng máy bay giữ năm cái vé về VN gấp. Ngày hôm sau ra lấy vé, thì tin tức loan báo cả vùng Đông Nam Á, đang bị dịch SARS (cúm gà) lan ra rất mau lẹ, chúng tôi khựng lại chưa biết tính sao. Mọi người bàn ra tán vào rằng, đằng nào má tôi cũng sẽ qua đời, nếu chúng tôi ùn ùn kéo về, đúng lúc bệnh dịch đang lan tràn, có khi nào cả năm đứa chúng tôi đi theo má tôi không. Chúng tôi loại ra ba người, còn lại hai người tình nguyện đi là tôi với thằng em trai, thì tối thứ năm ông anh báo má tôi đã qua đời. Vậy phải lấy vé máy bay gấp, không kịp làm Visa, tới phi trường sẽ phải trả 120 dollars cho một người để làm Visa tại chỗ. Nếu thứ Sáu lên đường thì tới VN tối thứ Bảy, nhưng thứ Bảy và Chủ Nhật, văn phòng cấp Visa không làm việc, vậy phải chờ đến thứ Hai. Chúng tôi gọi về VN bảo đợi chúng tôi đến thứ Hai, nhưng ông anh bảo rằng không thể đợi, vì má chúng tôi về VN ở là ở lậu, tiếng mới bây giờ là ở “chui”, bây giờ má chúng tôi chết là chết chui, không thể khai báo, vì má chúng tôi không có “hộ khẩu”. Úi giời, má chúng tôi khi còn sống đã rắc rối, bây giờ chết cũng gây rắc rối. Vậy thì chúng tôi quyết định không đứa nào về nữa, vì đằng nào má chúng tôi cũng đã mất rồi. Khi còn sống chúng tôi đã hết lòng hết dạ lo cho bà, bây giờ cho dù có về thì cũng không thấy được mặt bà, vì ở VN không đợi được, đã khâm liệm rồi. Vả lại tuy là chỉ có hai đứa về, nhưng mà lỡ bị dịch SARS lây lan, có chuyện gì thì bỏ chồng bỏ vợ bỏ con lại cũng tội nghiệp lắm chứ. Chắc má chúng tôi cũng thông cảm, mà ở VN cũng còn mấy ông anh và mấy đứa cháu nội, có cả cháu cố nữa chứ, đâu phải không có ai.
Bây giờ tính tới việc chôn cất hay thiêu, phải làm như thế nào đây?? Khi quyết định hồi hương, má chúng tôi có nói rằng khi bà qua đời, bà muốn được thiêu, rồi cho hài cốt vào chùa, vậy thì quyết định thiêu. Nhưng mấy ông anh ở VN thì nói rằng trước khi qua đời, má chúng tôi trăng trối rằng muốn chôn, vả lại ở chùa cũng có hứa sẽ tặng má chúng tôi một miếng đất và một áo quan để tẩm liệm, vì bà làm công quả nhiều cho chùa khi bà còn sống. Đám con bên Mỹ thì vẫn nhất định muốn thiêu, đám con bên VN thì nhất định muốn chôn cho đúng với ý nguyện của má tôi. Chị Hai chúng tôi thực tế cho rằng mấy người anh ở VN muốn chôn để có cơ hội moi tiền của chúng tôi bên này. Chúng tôi thì nghĩ đâu đến nỗi tệ như vậy. Chị Hai tôi nói “rồi tụi mày coi”. Cuối cùng chúng tôi ở xa nên chịu thua, gởi tiền về cho bên đó làm đám táng. Bên này, chúng tôi đến chùa Pháp Vương xin làm lễ phát tang. Bên VN, các ông anh cúng bái đãi đằng hết ba ngày, có quay phim chụp hình đàng hoàng, nhưng đến khúc chôn cất thì không thấy đâu, hỏi ra thì hôm đi chôn trời mưa dữ dội, máy quay phim bị ướt nên không quay được phút sau cùng.
Bốn mươi chín ngày sau, bên VN cúng bái xong chụp hình gởi sang, chúng tôi giành nhau xem và ngỡ ngàng thấy ngôi mộ của má chúng tôi trông thảm hại quá, chung quanh cỏ hoang mọc um tùm. Ngôi mộ chưa thấy được đắp đất cao như những ngôi mộ chúng ta thường thấy. Mộ bia cũng không có. Trên nắp mồ là tấm xi măng để lăn lóc vài thứ hoa quả, không có được một cái mâm hay cái đĩa nào để đựng. Nói tóm lại, nhìn chung quanh không giống nghĩa trang mà trông giống miếng đất hoang. Thật tội nghiệp cho má chúng tôi. Thằng em trai chúng tôi, kể từ bữa đó nó không ngủ được, trong lòng thấy xốn xang không yên. Mấy tháng sau, nó chạy tót về VN, không cho những người ở VN biết. Ra tới chỗ chôn má chúng tôi, nó khóc quá trời. Nó kể rằng tuy ngôi mộ ở gần chùa nhưng không nằm chung trong nghĩa trang như những ngôi mộ khác, mà nằm hẻo lánh trong một miếng đất thấp, xung quanh là khu dân cư, nhà nào cũng nuôi heo nuôi gà, nên khi rửa chuồng heo thì nước chảy xuống chỗ trũng, mà ngôi mộ má chúng tôi lại nằm đúng chỗ trũng nên lãnh đủ tất cả những cặn bã của chuồng heo. Thằng em tôi giận dữ vào chùa hỏi cho ra lẽ. Nó nói rằng “khi còn sinh tiền, má chúng tôi đã hết lòng ủng hộ cho chùa, sửa sang chùa, xây nhà phát thuốc, xây nguyên một dãy chung cư giúp những người vô gia cư ở tạm v..v.., tại sao khi má chúng tôi qua đời lại đối xử với thân xác bà như vậy”. Người phụ trách nói rằng “đó là cái nghiệp của bà phải trả cho xong kiếp này, may ra kiếp sau được thảnh thơi hơn, vả lại khi cho miếng đất nhà chùa có gợi ý rằng nếu trả thêm tiền sẽ được nằm ở chỗ khang trang hơn, nhưng mấy ông anh ở VN không chịu chi thêm tiền”. Thằng em chúng tôi tức điên người. Chúng tôi chưa hề từ chối bất cứ khoản yêu cầu nào, thế mà mấy ông anh không biết nghĩ gì mà để má chúng tôi ra nông nổi này. Thế rồi, thằng em chúng tôi đề nghị với chùa là muốn bốc mộ má chúng tôi đem thiêu. Nhà chùa bảo không thể được vì mới chôn có sáu tháng làm như vậy không nên, tuy nhiên nếu muốn thì phải ra phường xin phép, mà lúc chôn má chúng tôi là chôn “chui” nên phường khóm gì cũng không có hồ sơ, thì làm sao mà xin phép, nên phải thế này… thế kia… mới ổn… rồi cả trăm thứ bà lằng nhằng v..v.. Thằng em chúng tôi hiểu ra rằng vì thấy nó là Việt kiều nên họ muốn làm tiền. Nó hẹn để suy nghĩ rồi sẽ trở lại chùa bàn tính tiếp. Về tới nhà bên vợ của nó, mọi người bu lại giúp ý kiến, và cuối cùng tìm được một nhóm người chuyên môn làm nghề chôn cất, họ có thể giúp thằng em chúng tôi được toại nguyện. Thế là ngay hôm đó, nó cùng mấy người em vợ sắm sửa lễ bộ trở ra mộ má chúng tôi cúng bái và xin phép má chúng tôi cho nó đem bà đi thiêu. Không biết má chúng tôi có bằng lòng không, nhưng nó cứ làm theo ý muốn của nó.
Ba giờ sáng hôm sau, lúc mọi người còn ngủ say, nó cùng hai người em vợ và nhóm người phụ trách chôn cất gồm có bốn người và người nhà chúng tôi tất cả là bảy người, đi ra chỗ ngôi mộ má chúng tôi đang nằm, đem theo một cái hòm trống. Trời tối đen nhưng cũng thấy lờ mờ nhờ những con đom đóm thỉnh thoảng bay xẹt qua. Cả bọn vừa đi vừa dò dẫm như mấy thằng mù hát xẩm. Gần tới nơi, mấy người em vợ của nó đề nghị nó đứng núp trong bụi rậm từ đằng xa, phòng hờ công an biết được ụp vào bắt, mà thằng em chúng tôi là Việt kiều thì nguy to. Thế là nó đứng từ đằng xa nhìn nhóm người xăm xăm tiến đến ngôi mộ má chúng tôi đang nằm, giở cái nắp xi măng ra, giơ cái cuốc chim đập bể nắp hòm rồi lôi má chúng tôi lên. Má chúng tôi, khi liệm họ dùng mấy lớp túi ni lông bọc lại chứ không dùng vải như ngày xưa, cho nên họ kéo từ đáy huyệt lên một cách dễ dàng. Nghe tới đây chúng tôi hỏi thằng em “mày có chắc là má không, nhỡ đào nhằm mộ người khác thì sao, nhất là ngôi mộ không có mộ bia gì cả”. Thằng em chúng tôi nói “em thấy đúng là má rồi mà”. Vì má chúng tôi vóc người to lớn nên cũng khó nhầm với người khác. Nó nói tiếp “khi lôi má từ đáy huyệt lên cái xác còn nguyên, tóc tai em dựng đứng lạnh đến run lên cầm cập”.
Bốn người bốn góc nhấc bổng má chúng tôi lên bỏ lọt thỏm vào cái hòm mới, đậy tấm xi măng lại y như cũ, không ai biết ở dưới đó bây giờ trống rỗng. Bốn người đậy nắp hòm lại, kê vai khiêng cái hòm mới có má chúng tôi trong đó, chạy phom phom đến nơi chuyên môn thiêu xác. Đã hẹn trước nên nhà thiêu đã sẵn sàng, vụt một cái đẩy tuốt cái hòm có má chúng tôi vào trong lò thiêu, đóng kín lại bật lửa cháy phừng phừng. Cả bọn thở ra nhẹ nhõm, mặc kệ má chúng tôi có bằng lòng hay không.
Nghĩ cũng lạ, má chúng tôi lúc còn sống là người rất độc tài, muốn gì thì muốn cho bằng được, lúc chết vừa muốn chôn, vừa muốn thiêu, bây giờ thì đã được cả hai.
Ngày hôm sau, thằng em chúng tôi tới nhận tro cốt đem tới ngôi chùa khác khang trang và có vẻ đạo hạnh hơn gởi má chúng tôi vào trong đó. Nó giận mấy ông anh ở VN định không báo cho mấy người đó biết những chuyện đã xảy ra, để xem họ sẽ giở những trò gì. Nhưng cuối cùng không nỡ, trước khi trở lại Mỹ, nó tới gặp mấy ông anh và nói rằng “tôi nói cho mấy anh biết rằng má không còn ở chỗ đó nữa đâu” rồi bỏ đi, làm mấy ông anh ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra……
Con nhỏ em gái út chúng tôi nghẹn ngào hỏi “lúc còn sống má làm nhiều chuyện từ thiện lắm mà, sao lúc chết lại ra nông nỗi này”. Tôi giải thích với nó rằng “những chuyện từ thiện mà má đã làm là để tích đức cho tụi mình, và có thể là cho má ở kiếp sau, còn những gì má phải chịu trong khiếp này, có lẽ là do phải trả cho kiếp trước”. Không biết tôi giải nghĩa như thế có đúng không, nhưng ít nhất cũng an ủi chúng tôi được phần nào…..
Hoàng Dung