User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 

kontum

Đang dọn lại phòng khách vì tối qua, Thứ Bảy, có cuộc họp bạn đến 2 giờ sáng. Chợt điện thoại reo, Thư cầm ống nghe, có tiếng cười vui bên kia đầu dây của nhỏ Hằng:
- A lô chị Thư. Em có đánh thức chị dậy sớm quá không?
- Sớm gì, 11 giờ rồi đó cô nương. Có gì vui mà cười tươi rói vậy? Giọng Hằng đầy bí mật:
- Có một người quen cũ, đến từ phương xa, muốn nói chuyện với chị đây nè.
Thư định hỏi là ai. Nhưng bên kia, Hằng đã trao điện thoại cho một người nào đó:
- Hello chị Thư. Có nhận ra tiếng em không?
Thư ngờ ngợ nhưng chịu thua. Nàng ngập ngừng:
 - Xin lỗi, thật tình giọng lạ quá...
Người bên kia cười khẽ:
- Hoài đây chị. Hoài Kontum...    

Lập tức trong đầu Thư hiện ra hình ảnh một cô bé mảnh mai với suối tóc dài óng mượt. Da hơi ngăm đen. Cặp mắt thật to, sáng long lanh dưới hàng mi rậm và hình như có một núm đồng tiền nhỏ xíu bên khóe miệng, rất xinh. Tính rất tếu, chưa thấy người đã nghe tiếng cười giòn giã như bắp rang. Thư mừng rỡ:
- Thật là Hoài đó hả? Trời ơi, lâu quá không gặp. Hoài qua đây lâu chưa?
- Em du lịch sang Canada thăm gia đình. Nghe Hằng nói chị ở gần đây nên em gọi liền.
- Đúng, gần lắm. Hằng đến nhà mình chỉ mất độ 15 phút thôi. Vậy chừng nào mới được gặp Hoài đây?
- Chị đợi em một phút nha.
Sau đó Hoài hỏi:
- Chiều nay anh chị có mục gì không? Nếu không, đến nhà Hằng ăn cơm tối, tụi mình nhắc chuyện xưa.
- Xong rồi. Chiều nay nhé.

Thư gác máy, lòng bỗng rộn lên một niềm vui khó tả và như được uống một liều thuốc bổ, nàng hăng hái dọn dẹp nhà cửa. Vừa làm vừa hát bài "Sao vẫn còn mưa rơi". Thăng từ garage đi vào, nghe vợ hát ông ổng bèn phán một câu:
- Trời đất, bữa nay trời nắng đẹp như vầy mà em lại rên rỉ sao vẫn còn mưa rơi? Thật chỉ có trời mới hiểu nổi các bà!
Thư háy chồng:
- Xí, còn các ông thì sao? Chẳng ông nào được một giọt máu mơ mộng trong người! Mấùy bài buồn nó mới rung động lòng người, nó mới...
Thăng giơ hai tay lên trời:
- Thôi thôi chịu thua các bà. Muốn rên cứ rên đi. Riêng anh, mỗi lần nghe nhạc buồn là hai mí mắt cứ tự động... sụp xuống!

Thư lại xì một tiếng dài cả cây số. Nhưng chợt nhớ đến Hoài, nàng bỗng tươi nét mặt:
- Chiều nay có người mời tụi mình ăn cơm.
Thăng lơ đãng hỏi:
- Ai vậy?
Thư nhìn chồng cười tủm tỉm: 
- Cố nhân của anh.
Thăng giật mình nhìn vợ, hỏi một cách ngớ ngẩn:
- Cố nhân của anh? Cố nhân nào vậy kìa? 
- Thì... Hoài Kontum ngày xưa đó..
- Trời đất, vậy mà làm anh hết hồn! Quen thôi mờ, coi như em gái.
- Thì "người ta" có nói gì đâu. Ai có tật thì cứ giật mình!
Trêu Thăng xong, Thư vừa đi vào bếp vừa nói:
- Em đi hâm nồi phở đây. Anh gọi tụi nhóc dậy giùm em. 

alt

Rồi vừa làm bếp, Thư vừa hồi tưởng lại thủa còn con gái, ở cái xứ Kontum xa tít mù khơi. Quãng đời đó sao mà êm đềm, vô tư lự! Ai chưa ghé qua Kontum, sẽ tưởng rằng nơi đó chỉ có núi rừng trùng điệp, cùng đám người thiểu số (mà dân Việt thường gọi là Mọi cà răng căng tai). Nhưng nếu đã ở qua, thì sau này, dù có đi tận chân trời góc biển nào, một phần trái tim cũng đã bị cái xứ Kontum nhỏ bé đó giữ lại! Dân nơi đây là một sự pha trộn của ba miền Nam - Trung - Bắc. Phong cảnh đẹp một cách thơ mộng với con sông Dakbla bao bọc chung quanh thành phố (có thể thật hiền hoà vào mùa nắng và rất hung hãn vào mùa mưa. Những cơn lũ lụt lắm khi cuốn trôi cả nhà cửa lẫn súc vật hai bên bờ) và thật hùng vĩ với những dãy núi xa xa, màu xanh lam, thuộc dãy Trường Sơn trùng điệp. Cảnh đẹp và lòng người rất hiền hòa. Cao nguyên lạnh nên  con gái cũng da trắng má hồng, không thua gì các tiểu thơ xứ Hoa Anh Đào. Điểm đặc biệt nữa là Kontum đất cát trắng, không giống Pleiku, dù chỉ cách 50 cây số, mà đất lại đỏ quạch. Mùa mưa rất dơ, mỗi bước đi, cặp chân cứ muốn dính chặt xuống mặt đường.

Thư theo ba mẹ lên Kontum năm 12 tuổi, đứng lúc vào Đệ Thất trường sơ. Những ngày đầu phải diện chiếc áo dài trắng, bước trân đi sao vướng lạ lùng. Đối với bé Thư ngây thơ ngày đó, các chị Đệ Ngũ, Đệ Tứ, chị nào cũng đẹp như tiên. Nhưng vì tỉnh lẻ, nên sau lớp cao nhất là lớp Đệ Tứ, phần lớn các chị... theo chồng bỏ cuộc chơi hết trơn! Chẳng là Kontum có Sư Đoàn 22 Bộ Binh đóng. Sĩ quan đông, nên chỉ một cái e lệ gật đầu là các cô trở thành bà Úy, bà Tá ngay (học nhiều làm gì cho nó mau tàn phai nhan sắc!)

Ngày đó Hoài học dưới Thư một lớp. Cặp bài trùng Xuân Hoài - Xuân Lan nổi tiếng đẹp và phá phách. Văn nghệ, văn gừng không bao giờ thiếu bóng hai nàng. Tuy chơi nhiều nhưng học cũng rất giỏi. Lên Đệ Tam, Thư rời Kontum lên Đà Lạt và sau đó về Saigon học tiếp. Bạn bè cũ, đứa đi lấy chồng, đứa xuống Nha Trang, Đà Nẵng, Huế hoặc Sài Gòn. Mỗi kỳ trở về Kontum, cả đám lại tụ tập, kéo nhau đi ăn bò viên, chè sâm bảo lượng gần sân vận động. Hoặc đạp xe ra ngoài bờ sông. Dưới hàng phượng vĩ nở hoa đỏ rực vào mùa hè, có vài quán bán thạch, chè, yaourt. Quán nhỏ, nhưng trang trí mộc mạc dễ thương, với  những cụm lan rừng tím, vàng, trắng treo trên vách tỏa hương thơm ngào ngạt. Vừa nhâm ly thạch vừa tán dóc râm ran không có gì thú vị hơn.

Giặc đánh ở đâu chứ Kontum vẫn thái bình thịnh trị. Bây giờ mghĩ lại, Thư thấy ngày ấy mình ăn chưa no, lo chưa tối thôi, chớ chiến tranh đã có mặt khắp nơi. Bằng chứng là giữa năm Đệ Tứ, nhỏ Minh trong lớp Thư, đi xem hội chợ cùng gia đình dưới Pleiku. Khi về, trời chiều nhá nhem (ở miền núi chiều xuống rất nhanh). Việt cộng nhầm xe nhà Minh với xe ông Quận Trưởng nào đó, đã xả nguyên một băng đạn vào xe. Minh đang lơ mơ ngủ, chợt giật mình ngồi dậy, thế là lãnh ngay một viên vào cổ, máu tuôn xối xả. Xe ráng chạy về tới bệnh viện thì Minh trút linh hồn, không cứu kịp.
Thư đang ngồi trông tiệm cho mẹ, chợt thấy Bạch Lê tất tả đi vào, mặt trắng bệch không còn hột máu. Gặp Thư nó lắp bắp:
- Mày hay con Minh chết chưa?
Tưởng mình nghe nhầm, Thư hỏi lại:
- Cái gì? Mày nói đứa nào chết?

Bạch Lê vừa thở vừa kể... Thư vội vàng gọi mẹ, rồi cùng Bạch Lê lấy xe đạp chạy đi. Đến nhà Minh đã thấy có Thảo, có Sương, Ngọc, hai đứa nhè nhẹ đi vào. Làm dấu thánh giá xong quì thụp bên xác bạn, nước mắt hai hàng. Trời ơi, Minh đây sao? Cái thân thể nằm bất động, hai mắt nhắm nghiềm kia là con nhỏ Minh lí lắc đó sao. Mới hôm lễ Ba vua, nó nhất định bắt Thu phải làm Hoàng Hậu cho nó. Từ chối thế nào cũng không xong. Cuối cùng mặt mũi đỏ nhừ vì mắc cỡ, Thư phải nhận chiếc vương miện cùng cái áo choàng tù tay nhỏ.. Bây giờ đã thành người thiên cổ. Mười lăm tuổi đầu. Tội tình gì mà ra đi không một lời trăng trối?... Cả ban Trung Học đi đưa Minh đến nơi an nghỉ cuối cùng. Thư không hiểu vì nước mắt hay nước mưa, mà mặt mình lúc nào cũng đầm đìa. Có lẽ cả hai, vì ngày đưa đám, trời đất cũng thảm sầu, mưa hoài không dứt hạt!
Rồi mỗi chiều, sau khi tan học, Thư, Lan, Hương, Thảo, Sương, Bạch Lê, Ngọc cùng kéo nhau đi thăm mộ Minh. Nghĩa trang nằm ngay trước cửa trường Lasan. Rặt con trai. Một hôm ai đó đã đặt trên nấm mộ, vừa lấm tấm cỏ xanh của Minh một bài thơ, rất dễ thương:

Chiều hôm  nay nắng vàng vương nghĩa địa
Trút nguồn thương tôi dệt mấy vần thơ
Gửi đến em người chẳng biết bao giờ
Trong giấc mộng hình như vừa gặp gỡ
Tôi hối tiếc mối duyên còn dang dở
Mối tình câm? Sớm nở đã điêu tàn...      

Còn dài lắm, nhưng cái đầu óc mụ mẫm của Thư bây giờ không cho phép nhớ hết..... Sau Tú Tài, Thư và các bạn lần lượt lên xe hoa và nàng rời Kontum luôn cho đến bây giờ...    

Chưa đến 6 giờ, Thư đã giục chồng sửa soạn tới nhà Hằng. Bé Uyên ra mở cửa. Con bé càng lớn càng xinh với chiếc răng khểnh lấp ló mỗi khi cười. Vừa bước chân vào đã nghe tiếng Hằng thánh thót từ bếp:
- Chị Thư, anh Thăng phải không? Vô thẳng đây. Chị Hoài em ở trong này. Một thiếu phụ ngồi ở bàn ăn vội vàng đứng lên, tươi cười nhìn hai người đang đi vào. Thư kêu lên: Hoài? Trước mắt Thư không còn cô bé Hoài thân gầy như liễu, tóc dài như mây, mà là một Hoài hoàn toàn khác lạ. Tóc cắt thật ngắn và có phần đẫy đà hơn xưa, chỉ một tý thôi (ừ, 23 năm rồi, biết bao vật đổi sao dời), nhưng vẫn nụ cười đó, với cái núm đồng tiền nhỏ xíu bên khóe miệng và cặp mắt vẫn long lanh, đen tuyền. Hai đứa nắm tay nhau, cùng chớp mắt cảm động. Hoài lên tiếng:
- Anh Thăng có da có thịt hơn xưa, tóc ít đi và bạc hơn nhiều. Chị Thư vẫn vậy. 
Rồi Hoài cười khẽ khàng:
- Em còn nhớ ngày xưa anh Hưng em yêu chị mà đau khổ quá trời!   

Thư nhắm mắt lại một giây. Nàng nhớ như in cái cảnh một cô nhỏ mới học Đệ Thất, ngày hai buổi ôm cặp tíu tít cùng lũ bạn từ trường về nhà. Nhưng hôm nào đi một mình, thì lập tức có một cu cậu, cũng mới Đệ Thất như nàng, đạp xe rà rà bên cạnh. Cứ vậy từ năm này qua năm nọ. Thất, Lục, Ngũ, Tứ. Bất di bất dịch. Chỉ có điều là, anh chàng tha hồ muốn nói gì thì nói, cô nhỏ vẫn im lặng bước đều, giấu mặt sau vành nón lá. Những bức thơ gởi đi không bao giờ có hồi âm. Nhưng rồi Hưng cũng đã vĩnh viễn ra đi. Năm 75, khi tờ giấy miễn dịch đến đơn vị, thì đã chậm mất một bước. Thư nén tiếng thở dài, cười với Hoài:
- Coi dzậy mà hông phải dzậy đâu à! Nếu không nhờ Miss Clairol hoặc cô Nhật Begen thì mình đã thành bà Anh Cô tóc bạch kim. Gặp mặt, Hoài dám cúi đầu "thưa bác ạ" lắm đó nhe.
Mọi người cười xòa. Thư quay qua hỏi thăm sức khỏe của Trường, chồng Hằng:
- Sao, hôm trước nghe nói ông nuốt nhằm hột chôm chôm có gai nên bị lủng bao tử phải hông?
Hằng nguýt chồng:
- Xí, ông làm như em ngu lắm vậy đó. Em biết thừa là ba cái "nước nho lỏng" với “bánh mì lỏng” nó đục bao tử của ổng chớ nuốt nhằm hột gì đâu! Ai đời sáng xúc miệng có 5 chai bia và tối tráng miệng độ 5 chai nữa thì bao tử có bằng bê tông cốt sắt cũng phải lủng thôi!!...
Trường chỉ cười trước lời buộc tội gay gắt của vợ. Anh chàng nổi tiếng là hiền.
Mọi người ngồi vào bàn. Thư nhìn quanh không thấy bóng đàn ông lạ nên hỏi:
- Hoài qua đây một mình sao? "ổng" đâu?
Hoài ghé vào tai Thư đáp nho nhỏ:
- Tụi em chia tay rồi chị ơi. Em chịu đựng tới 10 năm thì... hết nổi!     

Trước mặt mọi người Thư không dám hỏi thêm, nhưng thấy thắc mắc. Một người vừa đẹp, vừa lanh lợi như Hoài mà bị gãy đổ hôn nhân? Hồng nhan đa truân sao? Hay sau cái chết của Thiên, lòng Hoài đã nguội lạnh? Trong cuộc chiến, đời phi công ngắn ngủi lắm. Nhưng có lẽ Hoài đã quên hai câu thơ: "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở". Đời hết vui khi đã vẹn câu thề rồi đó Hoài ơi. Có được bao nhiêu cặp vợ chồng sống đến răng long đầu bạc đơn thuần vì tình yêu?
Nghe Hoài kể về vài người bạn xưa, Thư thấy lòng bồi hồi thương cảm. Ánh, Linh đài các ngày nào, sau 75 gia đình bị tịch thâu hết tài sản, nghèo rớt mồng tơi, phải tảo tần buôn bán nuôi con. Một đứa chồng đi học tập ngoài Bắc, một đứa chồng qua đời. Nghe nói nhỏ Linh còn phải... "hối lộ" với tài xế xe hàng để họ giấu giùm hàng lậu. Vợ chồng Nguyệt dắt díu nhau xuống Nha Trang. Bách chồng Nguyệt đạp xích lô nuôi vợ con bữa đói bữa no. Thảm! Có lần trở về thăm Kontum, Hoài gặp một bà đội chiếc nón lá rách sùm sụp, vai vác chiếc cuốc đi ngược chiều, lúc đến gần mới nhận ra chị Giang, một cô giáo trẻ đẹp của trường sơ ngày xưa... Bây giờ trông chị già sọm như một bà ngoài năm mươi!

Thư hỏi Hoài có định ở lại luôn? Mắt Hoài thoáng buồn:
- Em sang được mấy tháng rồi, nhưng ở dưới Toronto với ba má. Lúc đầu cũng định xin ở lại, nhưng sau thấy khó quá. Chị nghĩ coi từng tuổi này, lỡ thầy lỡ thợ. Làm văn phòng không đủ khả năng, mà làm thợ thì không nổi. Chắc em chỉ ở chơi ít lâu rồi về lại Việt Nam. Dù gì bên đó em cũng còn mấy đứa em. Em lại độc thân lo gì...
... Hoài trở về Việt Nam rồi, Thư cũng thấy bâng khuâng ít lâu. Sao không buồn được. Dù sao Hoài cũng là chứng nhân của một quãng đời đầy hoa bướm của Thư, mà cái thời xa lơ xa lắc ấy chỉ có thể sống lại khi có dịp gặp  bạn bè xưa.
...Trời Montreal bắt đầu chớm thu. Sau một mùa hè nóng đổ lửa, trời đột nhiên trở lạnh sớm. Sáng đi làm, Thư đã phải quấn khăn kín cổ, không lại cảm lạnh. Người gì mà yếu như sên! Thăng vẫn nói vậy. Lúc này phòng mạch bác sĩ Quân đông khách. Ho hen, cảm cúm lu bù. Thư đang xếp hồ sơ vào tủ, chợt nghe điện thoại reo. Nàng lấy làm lạ vì tiếng chuông khác thường, hình như viễn liên.

Cầm ống nghe, quả như rằng, tiếng Xuân Lan vang lên từ... Paris:
- Thư hả? Tao vừa quyết định dẫn Như Quỳnh sang chơi bên đó. Có phiền gì vợ chồng mày không?
Thư reo vui:
- Phiền cái con khỉ. Qua đi. Mẹ con mày qua chơi tụi tao mừng gần chết chớ phiền cái nỗi gì. Chỉ hai mẹ con thôi sao? Ông Văn đâu? - Chàng mắc đi cầy. Vacances của ổng hết rồi. Còn tao thì chômage còn nuôi dài dài khỏi lo. Tội nghiệp bé Quỳnh học phờ râu tôm. Ra trường may mắn tìm được việc làm. Tao thưởng con bé bằng cách dắt qua thăm dì Thư hai tuần, cho biết Montreal luôn. Chỉ sợ phiền mày.
Thư giả giọng nghiêm:
- Bây giờ mày nói qua mà không qua mới là phiền tụi tao đó. A lê hấp, cho biết ngày giờ tới phi trường để tao ra đón.
Giọng Lan cười giòn bên kia đầu dây:
- Như vậy tao yên chí lớn. Thứ Tư tuần tới tao qua. Còn năm ngày nữa thôi. Lấy vé xong tao cho biết giờ.
- Ừ, mà nhớ mang nhiều đồ ấm đó. Bên này đang lạnh teo... luôn! Thôi cúp đi kẻo tốn của. Qua đây sẽ kể tiếp chuyện dài nhân dân... sợ vợ.

Cúp điện thoại rồi, Thư còn ngồi tần ngần mất mấy phút. Nhân dịp không có khách, Thư vào gõ cửa phòng khám bệnh. Bác sĩ Quân đang làm hồ sơ vội ngửng lên hỏi:
- Có gì đó Thư?
Thư ngập ngừng một tí rồi nói:
    - Bác sĩ ơi, chắc tuần tới em phải xin nghỉ ngày Thứ Sáu, vì có cô bạn từ Paris sang chơi. Chợt nhớ ra điều gì, Thư hỏi lại: - Em nhớ có thời gian bác sĩ làm việc tại bệnh viện Hai Dã Chiến ở Kontum, bác sĩ có biết anh Văn, lúc đó là Phó Tỉnh Hành Chánh.
Quân nhíu mày suy nghĩ một tí rồi vỗ trán:
    - Nhớ rồi, anh Văn người Huế, cao cao, ốm ốm. Ảnh hiền lắm, chỉ khoái nhậu.
Thư cười:
- Đích thị. Lan bạn em sắp qua chơi là vợ anh Văn.
- Vậy sao. Tôi không biết vợ chồng anh Văn đang ở Pháp.

Thư kể lể:
- Tội nghiệp hai người lắm bác sĩ ơi. Năm 73, anh Văn đổi về làm ở một tỉnh gần Sàigòn. Đến 75 mất nước tất nhiên ông Văn phải đi học mút mùa ngoài Bắc. Con bạn em giống như người bị rơi từ trên trời xuống. Buồn khổ, tuyệt vọng chất chồng bèn đau một trận tơi bời. May mà hai đứa nhỏ được bà chị đem về nhà săn sóc. Nó liệt giường, liệt chiếu sáu tháng trời, cơm nước không buồn rớ tới. Một bữa trời xui đất khiến thế nào mà nó chợt nhìn vào gương. Cái mà Lan thấy trong gương là một con ma chớ không phải con người. Cô nàng bỗng cảm thấy hãi hùng và lòng ham sống bỗng từ đâu đùng đùng nổi dậy. Rồi từ đó Lan cố gắng ăn uống, thuốc thang cho mau mạnh. Đón hai đứa nhỏ về cho có mẹ có con. Khỏe hẳn, Lan tìm đến Thảo, chồng là phi công cũng đang học tập ngoài Bắc. Hai bà hợp tác chạy thuốc tây. Một thời gian sau đủ tiền, bèn tìm đường mang con vượt biên. Trước hôm lên tàu, thằng Trí con của Thảo đang bị bệnh sốt xuất huyết, nằm ở nhà thương nhi đồng. Thảo lén ẵm con về nhà. May mà suốt chuyến ra khơi cho đến Mã Lai, thằng bé không việc gì. Chỉ tội đã đến gần bờ còn bị đám hải quân Mã Lai lên tàu lột sạch tiền của... Từ trại tị nạn Thảo với Lan sang Pháp và cậy cục làm bảo lãnh sẵn cho hai ông chồng còn trong trại cải tạo.

Thư chép miệng:
- Bác sĩ không thể tưởng tượng nơi xứ lạ quê người, hai đứa bạn em khổ cực tới bực nào, để vừa nuôi dạy các con, vừa gởi tiền về Việt Nam giúp đỡ gia đình. Lúc em sang thăm, đứa nào cũng ốm nhom, ốm nhách... may mà mấy đứa nhỏ thật ngoan. Biết thương mẹ và học hành chăm chỉ. Quân gật gù:
- Tôi thật tình bái phục các bà mẹ, bà vợ Việt Nam sát đất. Bình thường coi mảnh mai yếu đuối, vậy mà đến lúc nguy biến, sức chịu đựng và lòng can đảm lại gấp mấy lần đàn ông. Hơn nữa, trong mọi trường hợp các bà có tài ứng biến mau lẹ hơn chúng tôi.
Thư cũng gật đầu:
- Đúng đó bác sĩ. Hồi xưa, Pháp không cho bảo lãnh người từ Việt Nam qua nữa. Hai cô bạn em phải chạy vô tận văn phòng bà Tổng Thống Mitterand nhờ can thiệp giùm, nên hai ông mới được sang đoàn tụ cùng vợ con đó.
Đến đây có khách vào nên Thư đi ra. Bác sĩ Quân dặn với theo “Khi nào bà Văn qua cho tôi gửi lời thăm nhé.”

Hôm ra phi trường đón mẹ con Lan, Thư thấy lạ quá. Con bé Quỳnh không còn một tý gì của ngày còn thơ. Bây giờ đã là một thiếu nữ đẹp sắc sảo. Giống bố nhiều hơn mẹ. Lan và Thư ôm nhau bồi hồi. Bảy năm rồi chứ bộ ít sao? Nhưng với mái tóc ngắn, Lan trẻ hẳn ra. Nghe Thư khen, Lan cười:
- Tao bây giờ nhất định về hưu non. Ông Văn với hai đứa nhỏ đi làm cũng đủ rồi. Hồi xưa một mình tao vất vả nuôi ba mạng. Bây giờ ba mạng nuôi có một mình tao, khỏe ru. Lương thằng Cường bây giờ khá lắm. Đã đến lúc tao phải... hưởng phước đó nhỏ.
- Mi thì khỏe rồi. Tao chắc còn cày dài dài vì hai nhóc còn đi học. Cu Nam ra trường rồi, nhưng bây giờ công việc kiếm khó như mò kim đáy biển...
Lan kể hè vừa rồi về lại Kontum thăm mộ mẹ. Bà cụ mất đột ngột nên Lan không kịp về gặp mặt lần cuối. Nàng đến trường cũ thăm lại các sơ. Sau 75, trường bị nhà nước cộng sản tịch thâu, chỉ cho lại căn nhà nhỏ, cũng trong khuôn viên trường học. Các sơ không còn dạy học, chỉ được giữ trẻ và trồng trọt chút đỉnh để sinh sống.

Hôm vào thăm, Lan mặc quần đen, áo bà ba, đội nón lá sùm sụp che bớt mặt. Gặp sơ Marie-Paule, Hiệu Trưởng của tụi Thư ngày xửa ngày xưa, Lan giả giọng:
- Thưa Ma sơ, con muốn gởi đứa con nhỏ.
Chưa nói dứt câu, sơ đã giựt phắt cái nón, rồi vừa cười vừa mắng:
- Sư mày, mày định gạt ma sơ hả Lan!
Rồi hai thầy trò ôm nhau mừng mừng tủi tủi.
Giọng Lan ngậm ngụi:
- Thấy mấy sơ lam lũ tao thương quá mày ơi. Sơ hỏi thăm hết đám học trò cũ. Những đứa đã rời bỏ Kontum. Sơ gởi lời thăm mày nữa đó. Lúc ra về, tao dúi vô tay sơ tờ 100, bà cảm động ứa nước mắt. Có được mấy đứa học trò cũ về thăm lại Kontum hả mày? Nhứt là sau này, đường đi thật là xa xôi hiểm trở.
Thư bần thần đến nỗi quên hỏi thăm hàng phượng vĩ trước cửa trường có còn nở rực rỡ như xưa? Hay, vì vắng bóng những tà áo dài trắng, những chuỗi cười ròn rã của đám nữ sinh mà lũ nó cũng buồn rầu chết khô chết héo?!

Trầm ngâm một chút Lan chợt hỏi Thư:
- Mày còn nhớ con Lệ Quân không. Nhà nó gần kho gạo.
- Tao lạ gì. Hồi xưa nó học lớp tao. Rất thông minh. Cặp mắt nó vừa đen vừa sáng, lóng lánh như hai viên ngọc.
- Tội nó lắm mày ơi. Sau 75, tụi tao đã khổ mà nó còn khổ hơn. Vì chồng nó sĩ quan, lương còn chưa đủ sống, sau đó bị đi cải tạo, nó làm vất vả nuôi con bữa đói bữa no. Thằng chồng được thả về bèn vượt biên, hứa sẽ bảo lãnh vợ con sang sau. Ai ngờ, qua được bên Mỹ, gặp một mụ nặc nô cũng bỏ chồng. Hai đứa hạp nhau về cái món... "gì" thì mày biết rồi đó, bèn bỏ luôn vợ con bên nhà, đang mong ngóng từng ngày. Sau cùng, con Lệ Quân rứt ruột cho con gái theo dì vượt biên. Chẳng hiểu lên tàu làm sao, mà con nhỏ rớt xuống biển hồi nào không ai hay! Thảm một cái là tới giờ, mỗi lần em nó viết thơ về, vẫn phải nói dối là con bé bình yên, khỏe mạnh. Không ai dám nói thật, vì sợ nó có thể chết đi được. Tội nghiệp nó đâu còn trẻ trung gì để làm lại cuộc đời hả mày. Cả đám đã tròm trèm nửa thế kỷ hết trơn rồi!
- Ừ ngày xưa nhìn nó lúc nào cũng cười, khoe hai cái răng khểnh, cặp mắt có đuôi. Ai ngờ  đời nó thảm thương đến như vậy.

- Chưa đâu mày ơi. Mày có nhớ con Lan Đài bên lớp tao không? Con nhỏ tóc dài tới thắt lưng, điệu rơi điệu rụng đó. Sau này lấy tên Thanh, anh nhỏ Hoàng lớp mày. Sau 75, tên Thanh chạy tuốt qua Mỹ. Gia đình nhỏ Hoàng bị kiểm kê hết. Nghèo khủng khiếp. Mẹ nó từ một bà mệnh phụ phải gánh hàng ra chợ bán. Nhưng sau chịu không thấu hai ông bà đều bệnh nặng. Túng cùng, con Lan Đài phải hy sinh lấy cán bộ để đem tiền về nuôi bố mẹ chồng. Nghe  cứ như  là chuyện cổ tích mày há.
Thư, bùi ngùi:
- Tao chỉ mong đây là những chuyện không có thật.
Sau những tiếng thở dài sườn sượt thương cho số phận không may của đám bạn còn kẹt lại bên quê nhà. Cả hai im lặng một lúc, chợt Lan cười hi hí:
- Con Lan Đài mặt coi hiền mà một cây đó mày ơi. Tao nhớ năm Đệ Lục, đứa nào cũng ngố ơi là ngố. Một bữa, giữa giờ ra chơi, bốn năm đứa vây chung quanh nó, dĩ nhiên trong đó có tao, nó bèn lấy giọng thật nghiêm trọng:
- Tụi bây phải nhớ cho kỹ. Đừng bao giờ để cho tụi con trai hôn lên má. Biết tại sao không? Cả đám ngố lắc đầu, nó giơ một ngón tay lên điểm điểm trong không khí và gằn từng tiếng, cốt để những lời khuyên vàng ngọc của nó sẽ đi sâu vào mấy cái đầu óc ngu ngơ đang chờ đợi kia: là vì khi nó hôn được má bên nầy, nó sẽ hôn tiếp má bên kia. Rồi nó sẽ hôn xuống miệng và lần lần xuống cổ... và sau đó (con bé dài giọng ra)... mình sẽ không còn biết gì nữa...! Cả đám ngố nhìn nó một cách vừa khâm phục, vừa sợ hãi.      

Thư hình dung ra cái cảnh một lũ nhóc hỉ mũi chưa sạch, mặt nghệt ra vì sợ, trước cái viễn ảnh bị con trai hôn mà cười đến chảy nước mắt. Nhứt là với sự diễn tả của nhỏ Lan tếu không chịu được. Chẳng bù với tụi nhỏ thời nay. Ở phòng mạch bác sĩ Quân, nhiều đứa mới 12 tuổi đầu mẹ đã phải dẫn tới xin thuốc ngừa thai. 
Nhắc tới "những ngày xưa thân ái", Lan chép miệng:
- Tao thấy tội nghiệp cho lũ trẻ bây giờ không có được cái thú đọc thơ tình như tụi mình ngày xưa. Đứa nào cũng có một hộp đầy nhóc những lá thơ xanh, hồng, tím... đôi khi có anh còn điệu nghệ, dán lên trên một đóa Pensée ép khô!
- Ừ, Thư nhớ những chàng có máu liều thì tà tà theo người đẹp, rồi mắt trước mắt sau nhét đại bức thơ vào tay nàng. Những chàng yêu bóng vía hơn, thì phải nhờ tới mấy tay chim xanh (nếu có em gái học cùng trường với nàng càng tốt, nếu không thì phải nhờ tới đám em út của người tình trong mộng), nhưng thường phải mất khối quà cáp và những lời năn nỉ, hứa hẹn (đôi khi rất cuội) thiết tha. Không anh nào dám gởi thơ tình qua đường bưu điện. Vì theo một thống kê rất đáng tin cậy, có tới 99.9 phần trăm những bức thơ "tội lỗi" này sẽ lọt vào tay ông bà via và con đường duy nhất phải đi là con đường vào... sọt rác! Đó là không kể nàng sẽ bị một màn chất vấn rất dã man (bảo đảm không thua K.G.B hoặc phòng nhì Pháp là mấy) và sau cùng là một lô cấm: cấm không được gặp, cấm không được nói chuyện với "thằng đó" v..v và  v..v. Thư còn có cô bạn thân bị cấm... không được ngó qua ngó lại, mà phải nhìn thẳng về phiá trước, trên con đường từ trường về nhà. Nhưng các cụ thân sinh không biết rằng cái hồi hộp, cái hạnh phúc của sự bị cấm mà làm được nó to lớn đến mức nào.

alt

Hai bà càng nhắc lại, càng nuối tiếc cái thời hoa mộng ngày xưa và rất lấy làm thương xót cho lũ trẻ ngày nay. (Nhưng biết đâu chừng chúng nó lại thấy "ổng, bả" hồi đó sao mà lẩm cẩm quá trời. Thì giờ là vàng bạc mà cứ tán tới tán lui, thức hôm thức khuya, rồi lại nặn tim nặn óc viết những bức thư tình dài thòng, phí bao nhiêu là thời gian với sức khỏe. Đó là chưa kể có những kẻ "điên khùng" dám tự tử vì không được lấy nhau. Còn đám cưới đám xin, thì vừa tốn công vừa tốn của. Năm bảy lễ, lại đòi nọ đòi kia. Rắc rối quá chừng). Cứ nhắc nhở những chuyện lẩm cẩm đó mà đêm nào cũng thức đến 1, 2 giờ đêm... Gần ngày về, Thư đưa mẹ con Lan lên Laurentides chụp một lô hình. Mùa thu nơi đây đẹp rực rỡ với những rừng phong lá đổi màu. Từ xanh sang vàng, cam, tím, đỏ, hồng. Tất cả pha trộn thành một bức tranh tuyệt tác, mà chắc chắn không một họa sĩ nào có thể thực hiện nổi. Từ hai mươi năm qua, mùa thu nào Thư cũng ngắm mãi, không bao giờ chán. Và nàng biết chắc chắn rằng, mai này, nếu phải xa Canada, mùa thu, Thư sẽ nhớ quay nhớ quắt lá vàng và mùa đông, những cánh rừng phủ tuyết trắng. Năm ngoái, đi trợt tuyết với Thăng trên núi Bromont. Tuyết đổ cả đêm, nên hôm sau, tất cả cây rừng đều phủ đầy bông tuyết. Mặt trời chiếu vào, cả khu rừng sáng lóng lánh, Thư có cảm tưởng như mình đang lạc vào chốn Thiên Thai...

Đêm cuối cùng hai đứa thức thật khuya. Chợt nhớ đến đứa bạn cũ, Thư hỏi Lan còn nhớ Kim Ánh không. Lan trả lời:
- Sao không nhớ. Nó học lớp tao, mà lại là đứa đầm lai duy nhất ở Kontum. Bây giờ nó ở đâu? - Mấy hôm trước Hoài có cho Kim Ánh số điện thoại của Thư. Đột nhiên một buổi tối, có phôn từ Mỹ. Tất nhiên Thư không nhận ra người gọi. Đến chừng Ánh xưng tên Thư mới giựtt mình. Tính ra hơn 30 năm rồi chớ ít gì. Thư nhớ rất rõ nhỏ Ánh hồi xưa cao, tóc hoe vàng, da trắng bóc. Mẹ Ánh mỗi lần đến mua hàng là ngồi nói chuyện với mẹ Thư cả buổi. Đủ thứ, rất vui. Ánh chỉ ngồi im lặng bên cạnh mẹ, cười tủm tỉm. Ánh nói có mười đứa con. Thư không tin ở tai mình. Nhưng Ánh cười khanh khách:
- Mình có với ông xã trước 7, cộng thêm 1 của ông bây giờ là 8, cộng thêm của chung 2. Vị chi là 10.
Thư lè lưỡi, bái phục. Nhưng có điều Thư kinh ngạc nhứt là ông xã của Ánh hiện giờ là một người rất nổi tiếng. Lúc Thư còn là một thiếu nữ đầy mộng mơ. Tiếng hát, giòng nhạc của người nghệ sĩ này đã ru hồn nàng suốt từ những tháng năm xa xăm đó. Ánh nói sẽ qua chơi Montréal vào một đêm trình diễn văn nghệ. Lan tiếc không thể qua đúng lúc đó để gặp lại Ánh. Nhưng không sao, quả đất tròn...
Hôm đưa mẹ con Lan ra phi trường trở lại Paris, mắt đứa nào cũng đỏ hoe, tuy ngoài miệng vẫn phải gượng cười. Thư thầm cảm ơn bạn đã đem đến cho nàng hai tuần lễ thật tuyệt vời...

*****************

Lật bật đã đến ngày ra phi trường đón vợ chồng Ánh. Thư hồi hộp, chỉ sợ không nhận ra bạn. Thăng trấn an:
- Có gì mà không nhận ra. Bữa nay trần sì có hai đứa mình là Mít thôi mà. Với lại, tụi mình đã  gặp ông  Phương cách đây hai năm rồi.
Lúc hành khách lục tục đi ra, quả nhiên Thư không nhận ngay ra Ánh, vì cách ăn mặc, cô nàng giống đầm hơn xưa. Lúc Ánh cười và nói chuyện, Thư mới từ từ "nhận diện" lại được cô bạn của hơn ba mươi năm về trước. Nhưng đẹp và hoạt bát hơn nhiều. Sau giây phút ngỡ ngàng lúc đầu, Thư có cảm tưởng như hai đứa vừa chia tay cách đây không lâu. Rồi những câu như:
- Thư ơi, có nhớ hồi đó..... hoặc: Ánh ơi, có biết là.... tuôn ra như suối.
Ông xã của Ánh, rất trầm tĩnh, chỉ nhìn hai bà cười tủm tỉm. Ánh phân bua:
- Thư biết không, ông Phương nhà mình ổng nói sợ nhất là khi các bà cùng xứ gặp nhau, chuyện đâu mà nói hoài không dứt.
Thư cười nói với Phương:
- Anh không biết chớ, nhờ nhắc lại những kỷ niệm xưa, những buồn vui của thời còn đi học mà tụi tôi đỡ bị khủng khoảng tinh thần đó anh. Mỗi lần nghĩ đến một kỷ niệm nào, dù vui hay buồn, của những ngày xưa thân ái, là lòng bỗng dưng thấy lâng lâng, đầu óc bớt căng thẳng, nụ cười trên môi trở nên hiền dịu (vì chỉ sau mấy năm hương lửa, có khối ông chồng rên rỉ: bao năm qua em trở thành ác phụ!), cặp mắt mơ màng.... Tóm lại, các đức lang quân bất chợt gặp lại hình ảnh cô vợ bé bỏng, hiền hòa lúc mới bước chân lên xe hoa... Vậy nếu các bà có đấu nhiều, mấy ông cũng ráng... thông cảm một chút xíu nha.

Về đến nhà đã hơn 12 giờ khuya. Vợ chồng Ánh ăn qua loa rồi mệt quá, Phương vô phòng ngủ trước. Thăng cũng xin phép rút lui vì mai còn phải đi làm. Ánh và Thư cứ ngồi ngoài phòng khách rủ rỉ rù rì, quên hết thời gian. Đến lúc Phương từ phòng ngủ đi ra giục vợ:
- Thôi em, đi ngủ để chị Thư còn nghỉ ngơi. 2 giờ sáng rồi.
Thư vội nói không sao, ngày mai tôi nghỉ ở nhà tiếp hai ông bà. Tụi nầy nói thêm chút xíu nữa thôi. Nhưng đến 3 giờ, ông Phương lại lò dò đi ra giục vợ đi ngủ. Lúc đó hai bà mới chịu "tạm ngưng"...    Sáng hôm sau, Phương đi thu hình, Thư đón Hằng đến chơi. Lúc đó Thư mới hỏi trường hợp nào khiến Ánh gặp ông Phương. Đang tươi cười, mặt Ánh đột nhiên tối sầm và buông ra một tiếng thở dài, não nuột đến nỗi Hằng và Thư giựt mình, đưa mắt nhìn nhau. Giọng Ánh buồn rười rượi:
- Thư nhớ không, hồi còn đi học, Ánh  rất lặng lẽ, bởi mặc cảm mình là con lai.
Thư chêm vào:
- Ừ, hồi xưa Ánh hiền lắm. Nhưng bồ lấy chồng hồi nào mình không hay.
Ánh kể tiếp:
- Ừ, vì hiền quá nên mới "trao thân lầm tướng cướp"!

Hồi đó ông Minh theo hoài mình không chịu, bèn biểu diễn vài màn khổ nhục kế, tỉ như lấy đầu thuốc lá đang cháy châm vào cánh tay cho phỏng v...v.... Riết rồi con nhỏ mềm lòng. Có ngờ đâu, lấy Minh rồi mình phải về Saigòn ở chung với gia đình hắn. Làm dâu mà còn thua con ở. Tiền lương của Minh  đưa hết cho mẹ. Vợ không bao giờ có một xu dính túi. Mỗi ngày phải nấu tới 6 mâm cơm mà tiền chợ, mẹ chồng phát chỉ có thiếu chứ không bao giờ đủ. Nhiều hôm Ánh phải nhịn đói, nhường phần cho người khác.
Thư đùa một câu cho không khí bớt buồn thảm, vì vừa kể Ánh vừa ứa nước mắt, Hằng và Thư cũng thấy xót xa:
- Tớ chắc là bà mẹ chồng của Xuân Nương hồi nẳm tái sanh đó bồ ơi. Thời nay có bà mẹ chồng nào lại hành hạ con dâu tới mức đó.
Ánh cười gượng:
- Nghĩ đi nghĩ lại, Xuân Nương thủa xưa còn hạnh phúc gấp trăm ngàn lần Ánh, vì dù sao cũng còn có Lâm Sanh yêu thương. Đàng này, ông Minh đi làm về tới nhà, là thay quần áo tếch đi nhậu nhẹt ngay. Còn nếu có mặt ở nhà, cũng chỉ để hùa theo mẹ hành hạ, mắng chửi vợ thậm tệ.
Hằng tức tối cắt ngang:
- Nếu ổng tệ quá như vậy sao chị để có đến 7 đứa con lận? Em như chị lúc mới 1, 2 đứa em đã dẫn con trốn mất tiêu rồi.
Ánh lắc đầu:
- Hằng không thể tưởng tượng được đâu. Chị không chịu chìu ý ổng là bị đánh bầm tím mặt mày. Còn trốn hả, ổng mà kiếm được chắc chắn chị không sống sót đến giờ này đâu.
Thư và Hằng đồng thanh kêu lên:
- Chúa ơi, ghê đến vậy sao?

Ánh lắc đầu:
- Chưa thấm gì đâu. Vì ông Minh là sĩ quan, nên sau tháng tư 75 phải đi học tập, mình vào nhà thương sanh đứa thứ bảy. Ba hôm sau về nhà, hỡi ơi, bà mẹ chồng đã vứt hết đồ đạc cùng 6 đứa con ra đường (không kể đứa mới sinh đỏ hỏn còn bồng trên tay). Bả nói mình là con lai, sợ liên lụy tới gia đình bả. Năn nỉ gãy lưỡi cũng không lay chuyển được lòng dạ sắt đá của bà già này. Mấy mẹ con đành ôm nhau ngồi khóc. May sao có một anh thương phế binh, căn chòi cất ngay dưới mé sông, thấy tình cảnh thương tâm nên mời mẹ con về tạm trú. Ngày đêm Ánh chỉ lo các con sơ ý rớt xuống nước chết chìm. May nữa là có bà người làm trung thành, thấy mẹ con Ánh khốn khổ nên tình nguyện đi theo giúp đỡ. Sau này Ánh nhờ có bà trông con mới yên lòng ra ngoài buôn bán. Nhưng lúc đó, tuy mới sanh được một tuần, mà trong nhà không còn một hột gạo, Ánh đành vào nhà thương, bán một bịch máu, lấy vài ngàn định đi mua gạo. Nhưng từ nhà thương ra, vừa mệt vừa đói, Ánh cố lê bước đến bùng binh Sàigòn thì hết sức, ngồi phịch xuống một chiếc băng gỗ, nhìn người qua kẻ lại tấp nập, mặt người nào cũng đầy vẻ buồn bã, chịu đựng. Nhưng có lẽ không ai có hoàn cảnh bi đát hơn mình đâu. Ánh nghĩ vậy rồi không kềm được bật khóc nức nở. Đôi khi buồn quá Ánh cũng muốn tự tử phứt, nhưng nghĩ lại người chết thì yên, còn các con sẽ ra sao? Đứa lớn nhứt mới lên mười và đứa nhỏ nhứt chưa đầy tháng. Chỉ vì các con mà Ánh ráng sức phấn đấu đến ngày nay. Nhưng tương lai sao mịt mù, không lối thoát! Ánh ngồi thừ như vậy không biết bao lâu, đầu óc rối loạn những ý nghĩ đen tối.

Bỗng có một  người đàn ông đứng trước mặt Ánh cất tiếng hỏi:
- Chị Ánh phải không? Chị đang làm gì ở đây? Uả, mà sao trông chị như người đang bệnh nặng vậy? Ánh ngước lên và nhận ông Thanh, người quen cũ làm việc trong một viện bào chế. Nghe hỏi, Ánh động lòng lại bật khóc. Rồi vừa khóc, nàng vừa kể tình cảnh bi đát của mấy mẹ con. Ông Thanh nghe xong trầm ngâm giây lát rồi nói:
- Thật hên làm sao mà bữa nay tôi lái xe ngang qua đây. Thôi việc đầu tiên và cần kíp là mời chị đi ăn cái đã. Ánh phải công nhận là trong đời, chưa từng ăn bữa cơm nào ngon  như vậy. Sau đó ông Thanh hứa sẽ dẫn Ánh đến viện bào chế giới thiệu. Họ sẽ đưa thuốc cho Ánh bỏ mối mấy bạn hàng lẻ. Bán rồi mới trả tiền cho hãng sau. Chúa ơi! Chưa bao giờ Ánh thấy đời đẹp và đáng yêu như vậy. Nàng hân hoan cầm tiền đi mua 3 ký gạo về cho các con. Rồi từ đó nghề dạy nghề, Ánh trở thành một tay buôn thuốc tây lão luyện. Lúc này tiền bạc vô đều đều. Ánh dành dụm dần dần và nhứt quyết đưa các con vượt biên. Nhưng dẫn một lúc 7 đưa thì không kham nổi, vả lại họ đòi tiền nhiều quá. Cuối cùng Ánh đành gởi 2 đứa lớn theo một người đi đường bộ qua Thái Lan và người đó chính là em ruột ông Phương. Trong thời gian này, Phương cũng vừa chia tay với người vợ cũ. Muốn biết tin con, Ánh phải liên lạc qua Phương và dần dần một thứ cảm thông đã nẩy nở giữa hai người, cùng với tin vui là cả ba đã đến trại tị nạn Thái Lan, sau một chuyến đi đầy gian nan trắc trở.

Một thời gian sau, Ánh dẫn năm đứa con còn lại vượt biên. Nhưng rủi ro, trong khi chuyền từng đứa lên thuyền ra khơi thì bị động. Mọi người chạy tán loạn. Sau khi yên ổn, kiểm điểm lại thấy thiếu mất hai đứa, một lên bốn và một lên năm. Ánh như điên cuồng, nhưng không biết làm sao. Dùng đủ mọi cách để tìm kiếm tin tức hai con nhưng không kết quả, Ánh đành khóc lóc, lạy lục mẹ chồng, xin bà viết thư qua Mỹ, nhờ mấy người con đang sống ở đó kiếm các cháu giùm. Bà từ chối! Đoạn trường!... Chạy Đông chạy Tây, cuối cùng qua Hội Hồng Thập Tự, Ánh biết hai đứa nhỏ được một gia đình bên Mỹ bảo lãnh. Hú vía... Thời gian sau, Ánh một mình mò mẫm xuống một tỉnh lỵ tận cùng miền Nam để kiếm đường đi. Không may, bị công an biên phòng bắt giam. Nhờ người báo tin về Sàigòn và bỗng một hôm, Ánh giật nẩy mình khi nghe tên chúa ngục vào báo tin:
- Chị Ánh ra đi. Có chồng chị tới bảo lãnh.

Ai vậy kìa? Không lẽ ông Minh?  Ổng đang ở trại cải tạo mà. Và Ánh ngỡ ngàng khi nhận diện "ông chồng" từ trên trời rớt xuống đó chính là Phương, nhưng vẫn phải làm mặt tỉnh, tụi công an nghi thì chết cả hai. Lúc chỉ còn hai người, Ánh nguýt Phương một phát:
- Sao dám nhận là chồng người ta?
Phương cười cười:
- Thì cũng phải... nhận đại để lãnh em ra chứ.
Ánh chép miệng  lắc đầu:
- Liều ơi là liều. Anh có biết khi bị bắt, em khai là ông chồng đang ở trại cải tạo không?    
Phương gật gù:
- Kể ra cũng liều thật, nhưng không còn cách nào khác. May quá, tên bác sĩ coi trại tù là bạn của thằng em của anh. Khi nghe anh nói em là vợ, nó sốt sắng giúp anh liền. Chỉ một chầu nhậu với thằng chúa ngục là xem như không có chuyện gì xảy ra.
Hằng trêu:
- Bây giờ chỉ còn "chuyện  chúng mình" của hai anh chị thôi phải hôn?
Ánh cười:
- Ừ, thì lúc đó tao cũng cảm động ghê lắm...
Thư tố thêm:
- Rồi chắc đêm đó hai ông bà cùng song ca đoạn cuối bản "trăng sáng vườn chè" chớ gì? Thư giả bộ tằng hắng lấy giọng: đêm nay mới thật là đêm...
Ánh thẹn thùng đập lên vai Thư: 
- Quỷ nà!!...   

 Từ đó hai người chính thức sống với nhau và một thời gian sau tự tổ chức vượt biên lấy. Có lẽ vía ông Phương cứng, nên lần này cả nhà đi trót lọt. Qua đến Thái gặp lại hai con lớn và lúc sang được Hoa Kỳ, vợ chồng Ánh cũng cậy cục xin lại được hai đứa con nhỏ đã bị thất lạc năm xưa. Gia đình đoàn tụ và sau đó Ánh cho ra đời thêm một cu tí và một cái hĩm rất kháu khỉnh. Có điều là Thư không ngờ được là Ánh có thể chịu cực khổ ngoài cả sức tưởng tượng của mình.
Những năm đầu ở Mỹ, Ánh làm việc bất kể ngày đêm. Có thời gian, mỗi đêm Ánh chỉ ngủ 2, 3 tiếng đồng hồ. Nhìn thấy hai cánh tay Ánh loang lổ chỗ đen chỗ trắng, Thư hỏi tại sao. Ánh kể, lúc mới qua, đi giữ con cho vợ chồng một tên Luật Sư Mỹ. Chỉ vì vô ý làm đổ nước lên mặt chiếc bàn bằng gỗ quí, mà nó cho nghỉ việc. Về nhà, nhìn mười đứa con mà rầu thúi ruột. Lúc đó ông Phương đang được chính phủ cho đi học nghề. Ánh bèn đi mua một quyển sách dạy nấu ăn của bà Quốc Việt, gồng mình làm đại món bánh cam đem bỏ mấy tiệm tạp hóa. Một bữa sơ ý dầu chiên bốc lửa, cháy cả hai cánh tay và cả ngực, bụng. Vô nhà thương hết ba tuần. Người ngợm sưng lên như King Kong. Đã không tiền còn mang thêm món nợ mười tám ngàn đô, vì không mua bảo hiểm sức khỏe (sau này khá mới trả từ từ).

Thư tặc lưỡi:
- Thôi, cũng còn may là cái mặt không sao, chớ rủi bị phỏng, bây giờ Ánh thành bà Cẩm Nhung thứ hai rồi đó.
- Ừ Chúa còn thương. Vậy mà khi lành bịnh, Ánh lại tiếp tục làm bánh cam, mỗi ngày phải chiên mấy trăm cái lận đó, cực khiếp luôn. Tuy vậy vợ chồng Ánh nhứt định không xin trợ cấp xã hội. Ông Phương học xong xin được việc làm nên cũng đỡ. Vài năm sau, có một tiệm fastfood gần nhà để bảng sang. Ánh muốn thử thời vận, ông Phương la quá, bảo không biết nấu ăn làm sao ra tiệm? Nhưng con nhỏ "trán vồ" này, một khi muốn làm việc gì là phải làm cho bằng được, nên lén gom góp tiền và mượn thêm, âm thầm đi sang đại. Quả thật, khách càng ngày càng vắng dần, đến nỗi thức ăn làm ra, ngày nào cũng chỉ có vợ chồng con cái... thanh toán! Ánh bóp đầu bóp trán suy nghĩ, sau cùng quyết định làm thử món Á châu. Không ngờ lại thành công. Quán của Ánh được lên báo Mỹ hai lần rồi đó. Bây giờ khách đông lắm. Tức cười nhứt là, qua báo chí, vợ chồng tên Luật Sư Mỹ tới ăn, lúc nhận ra Ánh, tụi nó biểu diễn một màn tay bắt mặt mừng ghê quá!... Sau này ông Phương tự mở hãng riêng, không làm công nữa. Bây giờ nhờ Chúa thương, tụi Ánh tậu được mấy cái appartement cho thuê. Có năm cháu đã lập gia đình ra ở riêng. Ánh bây giờ có hai cháu ngoại rồi chớ bộ!

Thư nhìn bạn cười:
- Trong trường hợp của Ánh, câu "tiền hung hậu kiết" đúng hết chỗ chê!
Ánh lắc đầu chép miệng:
- Tuy vậy đôi khi Ánh nằm mê, thấy mình hãy còn sống cảnh làm dâu, bị chồng hành hạ... giựt mình thức giấc, nước mắt đầm đìa!
Thư an ủi:
- Tự nhiên thôi. Mình có một người bạn, vượt biên qua tới Bidong rồi mà còn nằm mơ thấy bị bắt lại, mà người bắt chính là tên thủ trưởng cũ của ảnh. Lúc tỉnh giấc, nhận ra mình đang ở Bidong, bỗng cảm thấy... chưa bao giờ sướng thế!... Nói thật với Ánh, trên đời này, không mấy người may mắn như bồ đâu. Trong lúc bơ vơ đói khát cùng 7 đứa nhỏ, tự nhiên có người đến giúp đỡ buôn bán, tiền vào như nước. Hai con vượt biên bằng đường bộ, không bị Khmer đỏ giết là một phép lạ. Hai đứa nhỏ xíu lạc qua tới... Mỹ mà sau cùng cũng tìm lại được. Nhưng điều may mắn nhứt là Ánh đã gặp được anh Phương. Anh thương yêu bồ thực lòng, săn sóc các cháu như một người cha ruột. Là một người nổi tiếng từ mấy mươi năm qua, mà tính tình lúc nào cũng trầm tĩnh, hòa nhã. Vậy hãy quên cái dĩ vãng đau thương mà hưởng lấy hạnh phúc hiện tại đi. Coi mười năm sống trong cái địa ngục trần gian đó là một món nợ mà Ánh phải trả. Nhưng trả xong rồi, phủi tay đi. Ngũ tuần rồi, không còn nhiều thì giờ nữa đâu bồ ơi. Nhìn quanh nhìn quẩn, thấy bạn bè kẻ mất người còn, bệnh hoạn đủ thứ, nghĩ lại, xem ra mình còn hạnh phúc chán. Ánh nghe mình, những gì "không cần nhớ" thì hãy quên phứt cho tâm hồn được thoải mái. Cứ nghĩ rằng mình còn may mắn hơn nhiều bạn bè khác. Bây giờ, sự nghiệp có, các con khôn lớn nên người, một ông chồng tốt. Hạnh phúc quá rồi. Đừng để con ma dĩ vãng nó bám cái hiện tại của mình. Không kể những khi nhớ chuyện xưa, bồ đâm bực bội gắt gỏng khiến chồng con mất vui.

Ánh nắm tay Thư bóp nhẹ:
- Mình biết chớ. Nhưng những chuyện ngày xưa như đã ăn sâu vào tâm tưởng, vào thịt da mình, không sao gột rửa được. Những cơn ác mộng vẫn ám ảnh mình mãi Thư ơi. Nghe bạn nói, Thư thấy lòng bồi hồi thương xót, và bỗng có cảm giác áy náy khi nghĩ đến cuộc đời mình. Bình lặng, giống như một giòng sông trôi lờ lững, thỉnh thoảng mới có một vài đợt sóng nhấp nhô. Những lần đó, Thư đã cảm thấy sao mình quá... khổ! Nhưng có lần, một chị bạn mà Thư rất yêu mến lẫn cảm phục, đã từ tốn khuyên: "thôi, chớ than khổ mà có tội! Cuộc đời như vậy là hạnh phúc lắm rồi. Còn biết bao nhiêu người khổ hơn mình". Sau này, mỗi lần suýt... than khổ là Thư lại nhớ đến lời khuyên của người bạn vàng. Bình tâm lại và không thấy mình khổ nữa... Thật vậy, so với nỗi bất hạnh của nhiều bạn bè xưa, nếu Thư than khổ thì quả tình có tội với Phật Trời...
Vợ chồng Ánh qua chơi chỉ được ba hôm, vì Ánh là bếp chánh, không thể vắng mặt lâu. Hôm đưa hai người ra phi trường, Thư nói nhỏ với Phương:
- Tội nghiệp,  ngày xưa Ánh khổ quá, nên tâm tính cũng thay đổi nhiều. Nóng giận bất thường.
Phương gật đầu:
- Tôi biết chứ. Vì vậy, mỗi lần Ánh nổi nóng là tôi lại phải rất ngọt ngào để dỗ dành. Chị Thư biết không, hồi đó, tôi không ngần ngại cột đời mình với Ánh vì thấy cô ấy là một bà mẹ quá tốt. Ánh giỏi lắm, cáng đáng mọi việc, vì vậy tôi mới có thì giờ để sáng tác.
Thư cười vui với Phương, vì biết rằng bạn mình thực sự có nhiều may mắn khi gặp được một người bạn đời quá tốt, quá hiểu biết... Trước giờ lên máy bay, Thư ôm Ánh nói nhỏ vào tai:
- Nhớ nghe, đừng để con ma nhà họ Phan ám quẻ nữa. Ánh gật đầu. Trên con đường từ phi trường về nhà, vừa lên xe là hai mí mắt Thư đã tự động sụp xuống, vì suốt mấy ngày qua, mỗi đêm nàng chỉ ngủ có vài tiếng đồng hồ... nhưng vui lắm!                                                                                                   

Tiểu Thu

 

Tìm các bài VĂN khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com