(16)
Kuala Trengganu March 16, 88
Anh Tô thân,
Ở trong trại suốt ngày đêm lắm lúc nhức đầu, căng thẳng vì công việc. Vấn đề của người tỵ nạn thì anh đã biết, bây giờ chuyện định cư càng lúc càng chậm và khó.
Mặc dù đã hết phép, hôm qua tôi bỏ mặc, lấy tàu ra đất liền nghỉ một bữa, mai vào lại.
Ở đây đang bắt đầu mùa khô và nắng. Ra đất liền thấy hoa phượng đã nở, nhớ lại hồi ở Đà Nẵng vào mùa này bọn mình chộn rộn chuẩn bị nghỉ hè.
Ở trong trại ngày đêm loa phóng thanh inh ỏi: Cảnh sát gọi người này kẻ khác, rồi danh sách chuyển trại… Lúc nào cũng là cơn sốt, đêm nằm rất khó ngủ. Tuần rồi tôi nhược sức. Trong việc tôi làm, nhiều đêm trăn trở suy nghĩ đến 3, 4 giờ sáng. Có lẽ người Việt Nam nào làm tại đây, cũng gặp vấn đề với những quyền lực mâu thuẫn nhau. Nhìn tình cảnh của đồng bào, là cả một chuỗi đau khổ dài. Tương lai cũng vẫn khổ như anh hiểu.
Tại đây những người Việt gốc miền Bắc có lẽ lại càng khổ hơn. Đã bỏ hàng ngũ Cộng sản trốn đi, vẫn bị chính đồng bào miền Nam nghi kỵ, lắm khi đánh đập, tạo những chuyện khó khăn trong việc định cư của những người này, mà các nước cũng không muốn nhận. Tôi nhận được một tờ Đường Sống số mới, có câu chuyện anh Nhật Tiến cũng viết về vấn đề ấy. Tôi thấy anh ấy viết như thế rất tốt.
Việc làm của tôi, đôi khi ở vị trí khó khăn. Tôi vẫn cố gắng nhẫn nại, thường phải mềm dẻo, chỉ thỉnh thoảng lắm nếu cần mới cương lên để đóng vai ông G. Bắp Thịt Trước Đã. Nhưng bắp thịt, tôi không có.
Nói đến bắp thịt và sức khỏe tinh thần: Ở trong trại có một ông Mã Lai gốc Ấn, rất to khỏe, đặc trách khối vệ sinh. Ông này hiền lành, theo đạo Bahai’s, chăm chỉ, nhưng không biết tổ chức nhân lực. Gần đây trại dơ dáy, rác rưởi, cứt đái lung tung. Ông Vệ Sinh bị ông Xếp Hồng Thập Tự Mã Lai (Giám đốc MRCS) ở trong trại là một ông Mã, cựu Trung Tá Tình Báo, gửi thư khiển trách. Hôm rồi, hai ông cự nự nhau ngay giữa trại, người tỵ nạn bu lại xem. Ông Vệ Sinh to béo theo đạo Bahai’s biện bạch gì, không rõ, rồi ông xếp nói năng gì, không biết, sau đấy chỉ nghe ông Vệ Sinh bảo là: “Chỉ sức mạnh tinh thần mới đáng kể!”
Ông Mã Lai cựu Trung Tá Tình Báo, gầy còm hơn nhưng to lon hơn, bất ngờ văng một câu: Đ.M. mày. Tao sẽ leo lên lưng mày… Hãy xem sức mạnh tinh thần có chống được cái này không…” Mồm nói tay làm: Thoi một phát vào cạnh mặt. Ông Bahai’s nằm giãy tê tê mấy phút sau mới dậy, ra nhà thương, đi báo cảnh sát. Hôm sau ông Vệ Sinh lấy tàu rời đảo, nói là sẽ về trung ương kiện ông Giám đốc MRCS.
Nội vụ chưa biết đến đâu. Hôm qua rác đã ngập trại và các cầu tiêu trong các khu nhà tỵ nạn đang ở tình trạng báo động đỏ. Phòng tôi sẽ phải kiêm việc vệ sinh.
(17)
Thư Đông/Thư Tây: Ra Đi
California 8-8-88
Anh Văn Lang Thi Sĩ,
Tôi đã nhận được cái thư đầy kèn cựa và cay cú của anh – mà phần lớn chỉ vì anh thấy tôi phúng phính. Anh giả vờ than gầy, nghèo và tả cảnh khổ sở cho người khác ăn không ngon, ngủ không yên. Thâm ý của anh làm nhiều khác càng mặc cảm phạm tội, càng tốt. Tính hiếu thắng từ đời nào làm anh khéo léo chuyển thành lòng cao thượng, can đảm, hy sinh, nhẫn nại, quên mình giúp đời…
Không! Lần này không ai thắc mắc anh nữa. Anh nào phải ở đảo, cứ việc ở đảo. Anh nào thích ăn trái cây, thích ăn chay, làm Hồng Thập Tự, săn sóc người cùi… cứ việc. Ông Trời sinh ra mỗi người mỗi phận. Lúc nào cũng có người khổ, dẫu cho Văn Bút giải tán và đi cứu đói toàn thế giới, cũng không hết được nỗi khổ. Cứu trợ chỉ giúp được việc đương thời, Văn Bút chúng tôi (tôi sắp được vào, anh Lê Đình Điểu đã nhắc) làm việc cho muôn đời sau, gần nhất cũng ba trăm năm sau (trung bình theo tiêu chuẩn cụ Nguyễn Du, một đồng nghiệp thi sĩ của tôi) cho đến 2.500 năm, cụ Lão Tử, tác giả đạo Đức Kinh, một văn sĩ.
Không có nghĩa hễ anh làm gì, người khác bắt buộc phải theo đuôi.
Các vụ lười đóng thuế, ra tòa, ly dị, bị đuổi sở… anh cũng không phải là tấm gương tốt gì. Các phong thái hoa chân múa tay ở hàng quán… các lời đặt điều, xỏ xiên… vẫn còn những ấn bản xấu xa đến giờ này. Biết bao tệ trạng (ngồi co cẳng lên ghế, vay tiền rồi quên, ăn ngon mặc đẹp, khoe khoang…) làm xấu mặt cộng đồng với người Mỹ, thử hỏi ai làm trước?
Nếu mọi người béo tốt ra, phải chăng chỉ là kết quả của sự ham muốn ăn uống? Tại sao lại thế? Ai khuyến khích sự ấy? Ai thích ăn cơm Đại Hàn? Ai thích ăn phở nhiều thịt ít bánh? Tôi thiết nghĩ nếu anh chịu suy nghĩ một chút, câu trả lời sẽ không khó khăn lắm đâu.
Tôi cũng muốn đi xa, nhưng điều kiện không đủ. Phải có bằng MA, BA… và phải nói, phải viết được Anh ngữ. Tuy nhiên tôi sẵn sàng đi. Anh xem và can thiệp thì tôi đi ngay.
Tôi đi là để mưu sinh. Không vì nhân loại. Vì từ xưa tôi ở hiền, tôi không làm gì ác mà cần chuộc lỗi. Có vài vụ ái tình hơi phạm luật nhưng tôi là nạn nhân của đàn bà, chứ tôi không dùng mưu chước cốt cho họ sa vào bẫy: Ăn bánh, trả tiền.
Anh chắc đã nhận được các báo tường thuật, trừ báo Người Việt, còn lần ra mắt sách về sau, hễ họ nhắc đến tôi, đều nhắc đến anh cả. Hồi này quyển Ngọn Cỏ Bồng rất có tác dụng, có nhiều người appreciate lắm.
Cử tọa đã Ồ… đã À… khi người ta trích đọc chương “Bạn Bè Mất Dạy” để nói về tôi. Đã Oh… đã Ah… khi đọc thơ “Vừa đẹp lại vừa ngoan…” hôm ra mắt sách ở D.C. Cuốn “Nơi Trại Trừng Giới” đã được phát thanh về Việt Nam cho Việt Cộng nó biết. Tuần rồi, khi anh viết thư chòng ghẹo tôi, toàn vùng D.C. phát hình trên TV vụ ra mắt NTTG với hình ảnh tôi nói chuyện. Hy vọng ông cụ anh đã gửi đến anh quyển sách của tôi (cụ bảo cho cụ một cuốn nữa, để cụ gởi cho, và tôi đã làm). Theo luận điệu trong thư (30/7) của anh thì anh chưa nhận được, chưa nhìn thấy.. cuốn sách của tôi. Vì nếu anh thấy, anh càng còn cay đắng da diết hơn nữa, lồng lộn hơn nữa; từ nội dung đến hình thức đáng được xếp vào trong sáu tuyệt phẩm Văn Học Việt Nam: cuốn Chữ Nôm của Đào Duy Anh, cuốn Kiều của Nguyễn Du, cuốn Nguồn Gốc Mã Lai của Bình Nguyên Lộc, cuốn Chùa Đàn của Nguyễn Tuân, cuốn Nơi Trại Trừng Giới của tôi và cuốn Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực của Phạm Công Thiện (Mai Thảo đứng hàng thứ bảy với cuốn Mười Đêm Ngà Ngọc).
Tấm chân dung (portrait) của tôi ở lưng bìa sách đã là một bước nhảy vọt trong nghệ thuật nhiếp ảnh: mang những sâu kín trong tâm hồn người mẫu cho độc giả thấy. Đặc biệt mang hết tinh anh dồn vào hai cặp mắt, một điều mà ba tấm chân dung khác của D. Bailey đã làm được. Hình chụp mắt ông Einstein, ông Thomas Mann, ông Camus… và ảnh (Đỗ Khiêm) chụp tôi. Anh Tô và những người thương mến anh (ông bà cụ) không muốn anh buồn, nên chắc đã giấu quyển NTTG không cho anh thấy, để cho anh yên tâm làm việc trả nợ chăng? Lúc tôi đưa biếu sách anh trên San Jose, mấy vị ấy nhìn rồi buồn buồn không nhắc tới anh, thầm thì là cuốn Ngọn Cỏ Bồng không có hình portrait của anh sau bìa.
Tôi ngồi gác dan thứ bảy.
Trời Cali mấy hôm nay đổi khí hậu: Trời mát lạnh, trong và xanh. Coi bộ trời vào thu. Tôi có một cái shack, một cái desk, bút, telephone, một cái TV, một quạt máy, một cái lò sưởi, một cái chìa khóa để thỉnh thoảng đi khóa cửa, mở cửa, một cái remote để bấm bấm, nếu có xe ra vào thì cửa điện mở ra. Cung Quan của tôi có sao Cự Môn, nên làm ở đâu tôi cũng hay ngồi gần cửa, hoặc nhìn ra cửa. Đời tôi hạnh phúc, nếu tôi làm bốn ngày, mỗi ngày 8 giờ, 5 đồng một giờ, trừ thuế thì tôi có khoảng 500, một trăm xăng nhớt, một trăm trả nợ, một trăm nhà, còn hai trăm tôi dùng để giao tế với giới bia ôm. Có một cô (nếu cô này ăn ở với tôi, sẽ là trí tuệ và sắc đẹp. Nước Mỹ này đã xảy ra một lần: Arthur Miller và Marilyn Monroe) đi từ Cam Bốt năm 12 tuổi, làm gogo dancer ở Hawaii, có hai con (hai bố khác nhau), chân dài, (lai Ấn, Miên, Ý, Việt), cao 1m68, 25 tuổi, da hồng như American Indian, đang làm waitress ở một tiệm nhậu Việt Nam, có tâm hồn và wild, đang là cái đinh cho các thương gia và các nhà văn, nhà báo đeo dính, nhưng cô ấy nói với tôi là “Em chỉ thích người đàn ông nào biết thương em”. Cô ấy không cần giàu nghèo, tuổi tác (tôi 46 tuổi tây, 47 tuổi ta) hoặc xe hơi nhà lầu. Tối qua, cô ấy lấy một cục nước đá bỏ vào sơ mi của tôi – như vậy là thân lắm, cô ấy chưa làm thế với khách bao giờ. Tôi nhậu mất 54US$, một anh chàng cùng bàn làm Top Carpet góp 30$, tôi chỉ trả 24$ thôi. Cô này thích các chuyện tiếu lâm, vui tính lắm, chân dài và thon (làm gogo dancer phải vậy) đến nỗi tôi cứ bảo là chân giả. Cô ấy kéo jupe lên cho tôi tì tay vào đùi để tôi thấy rõ là chân thiệt. Lúc đông khách, tôi vào nhà tự động lấy bia, tụi tôi đứng cạnh, sát nhau, cô ấy hay chạm vào người tôi lắm, tụi tôi nói chuyện rồi cô ấy cho tôi số phone nhà babysit con cô ấy để dễ tìm. Tôi đã hái hoa cúc vàng để cắm trên tóc, Cao Xuân Huy nhìn thấy rõ ràng. Và tôi không còn thấy biên giới gì của sự giai cấp, của lòng thiên kiến, của định luật xã hội loài người (môn đăng hộ đối, xướng ca vô loài, đồ waitress vân vân). Cô ấy bảo tôi đừng có ghen vì bàn tay bóp nắm cát, cát sẽ tuôn ra các khe tay. Còn để ngửa tay ra để cát trong lòng bàn tay, mặc kệ, thì cát vẫn còn đó. (Thí dụ này ở Hawaii nhiều người biết lắm). Tôi đã đồng ý. Cho đến giờ này, cô ấy vẫn chưa biết tôi là ai. Khi có ai đòi nhắc đến position của tôi hiện giờ, đòi nói về tôi, tôi chỉ giơ ngón tay lên một “suỵt suỵt”, chứ không cho cô ấy biết, vì theo tôi, nếu hiểu nhau, không cần phải màu mè bộ tịch mà phải hoàn toàn tự nhiên. Trong quán, tôi cố tình giấu hết cả các báo chí tường thuật gì về tôi. Đôi khi tôi chỉ bảo “người giống người” nếu có ai ngờ ngợ. Tụi tôi ngồi đợi khách ra về hết, treo bảng “đóng cửa”, rồi hát với nhau cho tới ba giờ sáng. Cô ấy thích bài Ngăn Cách, tôi thích bài Quay Tơ, anh làm thơ, em dệt lụa v.v… một tên nhậu bảo là bài bần tiện, vì làm thơ là việc nhẹ, đùn cho người đẹp phải lao động (dệt tơ), dệt xong còn may áo cho anh mặc, thì bị cô ấy bảo: Nếu thương nhau thì em làm đẹp cho chồng em, còn em thì em… đâu cần mặc gì (!!) Người mà vừa biết nhậu, vừa đẹp, vừa lại nhanh trí như thế là hiếm lắm (người Mỹ cũng được chục cô waitress cỡ đó thôi, đều đã làm cho Playboy cả, cô nào cũng đăng hình chụp ảnh trong báo) – nhiều anh Việt Nam cũng lấy vợ, cũng có bồ Mỹ…. Nhưng toàn là hạng xoàng, có thể chất nhưng thiếu wisdom, thiếu tâm hồn.
Tôi sẽ đưa cô ấy đi chụp hình, mặc áo tắm, mặc áo ngủ dạ hội, áo dài… hình đen trắng chứ không dùng hình màu, vì đen trắng mà rửa hình lấy thì tùy mình làm được đậm nhạt, tóc ngắn kéo ra thành tóc dài, tự mình dùng óc thẩm mỹ mà retouche tác phẩm của mình. Tôi viết đến đây lòng tôi rạo rực lắm.
…Hồn mất dần trong ánh mắt lưu ly
Ôi mắt xa khơi ôi mắt diệu kỳ
Ta thấy đó cả một trời mơ ước
Ta thấy bóng cả một vừng đông thủa trước
Cả con đường sao mọc lúc ta đi
Cả chiều sương mây phủ lối ta về
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ
Ta run sợ cho Yêu là mệnh số….
Chào anh,
Giai nhân danh sĩ mấy người
Bốn phương tụ hội một trời Orange.
Thăng Long Văn Sĩ
(18)
Ra Đi Vô Trật Tự
Pulau Bidong 20/8/88
Anh Thăng Long Văn Sĩ,
Vừa nhận được lá thư bốn con 8 của anh đề ngày 8/8/88. Nhận xét đầu tiên là sau những ngày tháng trì trệ, xuất bản xong quyển sách, anh có phần vui vẻ, trở lại phong độ thuở nào. Thấm thoắt kể từ ngày cùng làm tờ Thời Luận San Jose, đến nay đã 8, 9 năm rồi chứ có ít gì đâu? Bao nhiêu biến chuyển, bao nhiêu nước chảy qua cầu. “Chảy như thế kia suốt đêm ngày!” Thú thực, vừa định nhỏm dậy tìm quyển sách của anh (cũng vừa nhận được và đã đọc hết rồi) để tìm xem cho chính xác hồi làm tờ Thời Luận là năm nào. Mắt đang mờ mà trí nhớ bây giờ cũng phủ đặc mây mù.
Hôm nay nhận đến ba lá thư một lúc. Mỗi ngày có chuyến tàu Blue Dart vào đảo một lần, ai cũng mong ngóng đợi thư. Ba lá thư hôm nay: một lá của ông cụ cho biết mọi người trong gia đình bên Mỹ vẫn bình thường làm tôi an tâm. Cụ cũng cắt gửi theo một bài báo của anh (Thư Đông gửi Tây, nhan đề Ra Đi. Trong đó anh giả vờ viết cho tôi để cảm tạ khéo các thân hữu đã nể anh khen anh, bắt tay anh, mua vé tàu bay cho anh đi đó đây. (Ra mắt sách: thực là một công việc quê mùa, ở đây chúng tôi gọi là dỏm. Nhưng nếu làm anh thích, cứ kể là việc tốt).
Lá thư thứ hai của một anh bạn tỵ nạn là Trưởng Trại Pulau Bidong cách nay vài tháng. Sau khi được định cư tại Úc, vừa đặt chân đến Sidney đã vội vàng viết thư cho tôi ngay. Thư viết với lòng nồng nhiệt mới tinh của kẻ vừa ra đi, vừa đến, cho nên vẫn ưu tư về việc tỵ nạn. Lo âu cho những người ở trại Hồng Kông (càng ngày càng kẹt. 5.000 người bị nhốt cá hộp vào một nhà máy cũ, không cựa quậy gì được cho đến… vô hạn định). Tình hình bên Thái càng kẹt hơn. Tuần này đảo tôi tấp đến mấy chuyến, đa số bị đụng từ Thái Lan giạt qua. Nhiều chuyến bị giết gần sạch, chỉ vài người sống sót. Trong thư anh ta bảo: Ở đây (tức là bên Úc), áo quần thì phủ phê, anh em hội hè tặng nhiều lắm. Hội cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh có đến thăm và tặng một radio cassette, nghe nhạc cũng đỡ buồn. “Tóm lại về vật chất không có gì phải quan tâm nữa, nếu không muốn nói là quá thừa…” nhận xét từ trại tỵ nạn qua tới đây sự đổi khác một trời một vực”. Phản đề: “Nhưng thật mâu thuẫn, thấy chán và buồn. Tinh thần lúc nào cũng nặng nề. Luôn nhìn về Bidong với nỗi ưu tư xúc cảm”. Anh ta hãy còn lo âu cho những người mắc kẹt lại trong các trại tỵ nạn vì tiêu chuẩn định cư càng ngày càng khó, số người được nhận định cư đang bị hạ thấp xuống nữa… “Cho nên trong tương lai gần, chắc rằng kế hoạch công tác với UNHCR và các phái đoàn để đề nghị định cư cần phân loại đối tượng cụ thể. Đây chính là vấn đề tế nhị cho công tác viên xã hội như toi và chị M. Moi thấy cậu cần thận trọng và mềm mỏng hơn. Lại nữa, cũng đừng quên vấn đề sức khỏe. Vấn đề nhiều lúc vượt ngoài tầm tay dù cho mình có tâm huyết đến mấy, có thiện chí thế nào cũng không xoay chuyển nổi thế cờ…” Tổng hợp đề: “Mình không bi quan nhưng nói thế để mong toi sẽ bình tĩnh tháo gỡ những vướng mắc làm nặng óc và tỉnh trí giải quyết các công việc cụ thể trợ giúp thực tế cho đồng bào trong đời sống hàng ngày…” (vân vân).
Đúng vậy, sau hơn bảy tháng rưỡi làm việc ở nay, mỗi lúc tôi càng bối rối bởi những sự phức tạp bi thảm mà cố gắng cũng không thay đổi được gì nhiều. Số người gấp đôi số nhà ở. Chính quyền địa phương ra lệnh cấm cất nhà mới. Thực phẩm thiếu. Nước ngọt thiếu (Nước mang vào từ đất liền bằng tàu. Mỗi lúc phát nước là có đánh nhau. Chúng tôi đề nghị phương thức cấp nước có trật tự thì họ không áp dụng). Người tỵ nạn tốt thì mỏi mệt sau khi trải qua quá nhiều bi kịch, lại lo âu ghê gớm về triển vọng định cư càng lúc càng mịt mờ. Tin tức về những việc trả về Việt Nam làm họ mất tinh thần. Làm sao kêu gọi họ đóng góp những việc chung trong trại? Rác rưởi, nhà cầu, cống, rãnh… mọi thứ hôi hám, bẩn thỉu, chật chội. Người tỵ nạn xấu thì cấu kết giành giật đồ ăn nước uống, lập băng đảng cướp bóc, đánh người tống tiền, giựt đồ cướp của. Tình trạng an ninh nói chung rất xấu. Những người muốn giải quyết vấn đề (dù chỉ là nhân đạo thôi) lại chẳng có mảy may quyền lực trong tay. Phương tiện lại càng thiếu thốn. Đôi khi ngao ngán quá mới tìm thấy ra sự thật: Người ta muốn như thế. Có khi họ bảo thẳng: “Đây không phải là một cái Hotel, chúng tôi chỉ muốn người Việt đừng đến hoặc nếu đã đến, phải đi cho nhanh”. Nhưng vẫn phải luồn lách, cố gắng làm được gì thì làm thôi.
Lá thư bốn con số tám của anh đến tay tôi trong khung cảnh ngôi trại tỵ nạn này mang cho tôi một nguồn vui lây mà mà có lẽ anh không biết. Nói thật đấy chứ không xỏ xiên gì đâu. Đang căng thẳng với nhiều vấn đề, đúng vậy, hàng ngày thường ăn uống qua loa, làm việc 14, 15 tiếng cùng với nỗi lo âu chồng chất của gần 10.000 người cộng lại. (Mà thực cũng chưa thấm vào đâu với những trại khác bên Thái, như Phanatnikhom đang chứa hơn 160.000 người). Cô G. đã cười mũi vào mặt tôi lúc ở Bangkok mà nhắc tôi như vậy.
Vài tuần trên đảo mệt quá, tôi lại nhảy xuống tàu trốn sang đất liền trong khi những người bạn, những người tỵ nạn buồn bã nhìn theo. Tuần rồi, trốn đi hai ngày, đến một làng quê nước Mã cách Kuala Terrenganu hơn mười cây số. Ngủ. Rồi lại ngủ. Lúc về, đứng ở mũi tàu khỏe khoắn, nhìn biển mênh mông dưới nắng, nhìn hòn đảo xanh rì với những thân dừa ngạo nghễ. Thơ mộng lạ. Nhưng chỉ đặt chân xuống cầu tàu là bắt ngay trở lại cái dồn nén, hằn học, xao xác, lo âu. Những điều chứng kiến hơn bảy tháng rưỡi nay đang làm tôi chai đá cảm xúc, nhưng sự bất lực vẫn có thể làm bất cứ ai cũng ứa nước mắt trong đêm, nằm im một chỗ trong bóng tối mà cầu nguyện.
Phải, đúng vậy anh ạ, tính hiếu thắng chuyển người ta thành cao thượng, can đảm, hy sinh, nhẫn nại. Thì đã sao? Nói cho ngay tôi cũng đang làm việc có ăn lương. Được đi du lịch. Lại còn được tiếng “quên mình giúp đời” như anh trêu ghẹo. Cái tôi đáng ghét nhưng cũng có thể đáng yêu chứ. Tại sao không? Còn tiếng khen (như những lời khen láo trong những buổi ra mắt sách nếu có thể làm cho người ta còng lưng đóng góp chút đỉnh gì….) thì cũng nên khuyến khích chứ? (Chính sách của chúng tôi trước sau như một).
“Báo chúng tôi chỉ nhận lời khen, lời chê xin dành cho báo khác. Thà được khen láo còn hơn được chê thật”.
Chỉ có điều khốn nạn là: Có ăn lương, được đi du lịch, được yêu mến, (đôi khi kính cẩn), được tiếng khen, mỗi ngày làm việc quần quật từ 8 giờ sáng đến 11 giờ giới nghiêm, nhưng cái kết quả vẫn như thế. Ông bạn tiền nhiệm Nguyễn Tường Vũ, cháu cụ Nhất Linh, đã ra về Gia Nã Đại với bộ xương còm cõi, một đầu tóc bạc trắng, một tâm hồn chán chường vì cũng nhận rất nhiều mà cho chẳng bao nhiêu. Điều ấy mới đáng nói chứ? Sao anh không trêu ghẹo tôi về điều ấy?
Trước khi bắt tay vào việc, cô G. đã nói trước với tôi nỗi sầu này bằng tiếng Mỹ. Hình như là “you will receive a lot and you will give very little”. Anh sẽ nhận rất nhiều và cho rất ít. Chả hiểu viết thế có đúng văn phạm không? Đại khái là như vậy.
Nói về những đứa bé nhé? Nhìn hơn 700 đứa bé không có cha mẹ đi theo, sống lạc lõng trên đảo mà rầu. Có hơn 200 đứa được tập trung vào một căn nhà do một Linh Mục người đảo Malta săn sóc. Nhưng không đủ chỗ chứa những đứa khác. Có đứa chỉ mới 7 tuổi, cha mẹ cho đi vượt biên một mình. Hình như vấn đề nhà ở, nước uống, vệ sinh là những vấn đề trọng yếu quá, ít người rỗi hơi mà nghĩ chúng nó có nhớ cha mẹ, nhớ anh em không? Chúng có lo sợ tương lai không? Chúng nó đi thành bầy lang thang trên đảo. Chúng nó cảm thấy gì, nghĩ gì trong những cái đầu bé xíu kia?
Tháng trước tôi có tổ chức một buổi thi vẽ tranh đen trắng, mục đích giúp người tỵ nạn bận rộn. Sinh hoạt văn hóa. Mở ra phần nào cảm thông giữa người tỵ nạn với các nhân viên ngoại quốc và địa phương. Bức được mọi người bầu giải nhất vẽ một con tàu đang đắm. Một đám người tuyệt vọng đang cuống quýt bấu víu lấy đời sống. Bấu víu lấy chiếc lưng tàu lật úp. Không ai nhìn mà không để ý cái miệng tròn hình chữ O của một cô gái như một cái hốc kinh sợ đen sì. Bức số hai vẽ hình một người đàn ông (ở đây xứ nóng, người tỵ nạn thường mặc quần đùi, ở trần. Vả chăng quần áo rất thiếu). Anh ta ngồi một mình ở cầu tàu nhìn ra mặt biển trong một buổi chiều. Mặt biển êm ái mà trong đêm nay đây vẫn đều đặn có sóng, nhưng nếu nhìn cái khoảng trống rỗng mù mịt từ hòn đảo này trong bóng tối, nào ai khỏi nghĩ tới con số mấy trăm ngàn người đã bỏ mình và vẫn đang đều đặn bỏ mình. Cái bức số hai này nhìn kỹ mới thấy người họa sĩ tỵ nạn dùng bút cứng vẽ hằn nhẹ trên bầu trời và mặt biển xa xăm khuôn mặt của một người đàn bà và hai đứa con. Trong chuyến vượt biển, con tàu đã bị bọn ngư phủ Thái cướp xong rồi húc cho đắm, những người trồi ngụp trong sóng nước đã bị bọn ngư phủ Thái bơi tàu chạy rà rà chung quanh rồi dùng dầm đập xuống. Chỉ vài người, trong đó có người họa sĩ sống sót. Cái nét vẽ không màu, cái nét vẽ hằn lên mặt giấy chẳng phải là một kỹ thuật mới lạ, nhưng tôi thấy từng nét tóc đau đớn và âu yếm biết bao. Trên hòn đảo này đây, người ta hiểu sự trơ trọi của những người rời đám đông, ngồi một mình ở những mỏm núi cầu tàu. Nhưng vẫn chẳng ai hiểu hết những gì bi thương cùng cực vừa xảy ra xong trên biển, đến đảo, sau khi hoàn tất những thủ tục khai báo, lập tức mọi người lẫn vào đám đông vô danh, không ai biết ai bị hãm hiếp bao nhiêu lần, người ta duy trì đời sống, vật lộn với những miếng thịt gà, những miếng cá được chia mỗi tuần ba lần (gạo thì thừa, đồ ăn và rau đủ ba bữa, còn mười một bữa kia chỉ cơm không và mì gói, nếu không có thân nhân ngoại quốc gửi tiền). Vậy mà một anh bạn tôi, sau 13 năm bị Việt Cộng giam cầm cải tạo, lại còn bảo: Dẫu sao vẫn còn sung sướng chán.
Kể thêm một số tranh vẽ nữa: ví dụ bức hình một cô nhi, một unaccompanied minor ngồi bó gối trong một góc trại, nước mắt chảy dài trên má. Cái cố gắng của họa sĩ lộ liễu quá. Nó không làm tôi buồn. Một bức vẽ cô nhi khác làm tôi chú ý hơn: Một chú bé ngồi viết thư cho cha mẹ vào đêm khuya, chú bé ngủ gật, má áp lên lá thư. Dưới chân bàn, một chú chuột đang thò đầu nhìn lên. Xin nói rõ Pulau Bidong rất nhiều chuột. Sau giờ giới nghiêm là giờ chuột chạy trên toàn đảo. Chuột bò lên người, chuột cắn cả chân người. Ngoài ra nhìn bức vẽ, họa sĩ không quên mấy con dơi đeo trên những cành cây. Bây giờ, ngoài kia trên những hàng cây um tùm, trên những ngọn dừa, đàn dơi đang kêu chí chóe. Tiếng dơi ban đêm kêu dai dẳng như cãi cọ, chửi bới, khóc lóc. Một giống dơi bà to kếch xù, tiếng kêu làm người ta khó chịu, có khi đâm ra ghê tởm, sợ sệt, nhất là vào những đêm trăng mờ, biển động. Trong bóng tối người ta nghĩ đến những con tàu trung bình mười một, mười hai thước, có khi chỉ 9 thước bề dài, 3 thước bề ngang, những con tàu chạy ngoài kia, với những con người chồng chất ôm lấy nhau. Những lúc ấy người ta chỉ còn có thể phát tâm cầu nguyện. Hoặc thức dậy mở cửa, thắp vài nén hương nhìn ra biển lạy Trời lạy Phật xin cho họ đến được bến bờ.
Anh Thăng Long Văn Sĩ, trong cái không khí bực bội, xao động, lo âu ở đây, chui rúc trong những căn nhà ọp ẹp nóng bức chật chội của đêm nhiệt đới, không có đèn trong nhà, mười mấy con người một vài thước vuông. Ngày đêm loa phóng thanh chát chúa đọc tên những người may mắn được nhận định cư, sắp ra đi. Có người chờ đợi tên mình đã bốn, năm năm qua. Tiếng phóng thanh với giọng chát chúa qua những cái loa rè cũ kỹ, ồn ào, dọa dẫm, kêu người này người kia lên đồn cảnh sát. Anh sẽ không ngạc nhiên thấy bất cứ ai cũng có thể đâm chém nhau vì những lý do vụn vặt không đâu.
Hàng ngàn cô gái độc thân đủ mọi thành phần có mặt trên đảo này. Có người sau khi bị hãm hiếp trên mặt biển lại còn bị đe dọa bất an trên đất liền, trong cái môi trường hỗn loạn đến phi nhân ở đây. Nạn nhân thường không dám hở môi tố cáo vì sợ bị trả thù. Cuộc sống, ở đây là như thế.
Anh Thăng Long thân mến! Lá thư của anh đã giúp tôi thoải mái được buổi trưa nay. Tôi nói thật đấy, mong anh gửi tiếp cho tôi những lá thư vui vẻ, mặc xác những nỗi buồn sầu tôi nói ở đây. Đừng để nó ảnh hưởng đến anh, nếu anh buồn, cũng không có thể làm được điều gì. Phải, ai có số người nấy. Nước còn có số nữa, huống chi là người. Cùng bị đô hộ áp bức dưới chế độ thuộc địa như Việt Nam mà Mã Lai chẳng vất vả bao nhiêu cũng được độc lập, tự do, hạnh phúc từ năm 1957. Giờ này họ đã trở thành một nước Á Châu có một nền kinh tế tương đối ổn định, dẫn đầu thế giới về cao su, về thiếc, giá dầu thô sản xuất rất rẻ, đang bắt đầu khai thác kỹ nghệ chế biến thay vì cung cấp nguyên liệu. Đi đến các làng mạc xa xôi vẫn thấy điện nước, xe cộ, nhà cửa khang trang, ngăn nắp. Trong lúc Việt Nam tan nát rối bời, càng lúc càng tan nát đói kém hơn.
Ai có số người nấy. Đường ai phải đi người ấy phải đi. Thiện và Ác là một? Sống và Chết là một? Số ai bị chìm trên biển thì chìm trên biển. Số ai đến được bến bờ là đến bến bờ. Ai được đi định cư, ôm cái gói MRCS Hồng Thập Tự Mã Lai ra cầu jetty lên đường đi định cư. Ai bị xù, mậu diện, cứ ở lại. “Tình Bidong có list cũng dông”. Đó là cách ngôn ở đây.
Từ nay Đông Tây đôi ngả. Anh cứ đi theo ông Chekhov, ông Brecht, ông Kafka… tôi ở phương Đông, tôi theo ông “Bắp Thịt Trước Đã” đi tìm các ông Mạnh Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử, Dương Tử, Liệt Tử, Lão Tử, Trang Tử, Bách gia chư tử. Thực ra các ông ấy chết cũng đã lâu lắm, chỉ còn lại mấy chữ Hán Việt lõm bõm dành cho bọn hậu học đua đòi đấy thôi.
Mặc. Chúng tôi trở lại con đường đọc sách Luận ngữ, đọc chuyện Khổng Phu tử đứng trên bờ sông mà nói: “Chảy như thế kia… chảy như thế kia suốt cả đêm ngày! Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ”.
Nước chảy, tức là nước đi. Ra đi có trật tự tức là ODP: Orderly Departure Program, có giấy phép, đi bằng tàu bay. Ra đi vô trật tự tức là VBP: Vietnamese Boat People, thuyền nhân, người ta cấm vẫn cứ đi, không nhận vẫn cứ đến, đánh bạc cuộc sống mình, vợ con mình trên những con tàu mỏng manh, vẫn cứ phải ra đi. Khổng Phu tử, Ngài thường chẳng lý gì đến mấy chuyện siêu hình. Ngài đứng nhìn bờ sông nước chảy mà nói như thế là nói cái gì? Phải chăng Ngài cũng chỉ muốn hỏi: Hỡi ôi, chẳng hay nước ra đi, ra đi… như thế là ra đi có trật tự hay ra đi không có Trật tự trong cái vũ trụ mênh mông này?
Văn Lang Thi Sĩ
Tái bút: Tôi có đưa thư anh cho người tỵ nạn đọc, lâu lâu họ lại hỏi “appreciate” là cái gì? “Shack” là cái gì? “gogo dance là gì? Giữa Đông và Tây, giữa người Việt trong nước và ngoài nước, giữa người tỵ nạn mới và cũ – chúng ta bắt đầu cần tự điển và rất nhiều cước chú.
Vậy phần tôi ghi rõ 1-/ “Xù” tức là bị các phài đoàn định cư từ chối. Bị vợ “xù” là bị vợ bỏ. – Vợ đã qua Úc, qua Mỹ từ trước… đã lấy chồng khác, từ chối làm giấy tờ bảo lãnh. Bị dừa “xù” tức là những hôm trời gió, nghe còi hú đừng có đi lang thang trên đảo mà bị dừa khô rơi vào đầu. 2.- “Mậu diện” tức là không có diện, không đủ tiêu chuẩn định cư do các phái đoàn đặt ra mỗi ngày một khó.
Kèm nay là phóng ảnh thu nhỏ một số hình đen trắng này đã được triển lãm trong đảo Bidong với khoảng gần một trăm bức tranh sơn dầu do các họa sĩ tài tử vẽ. Rất tiếc không còn giữ được đủ tên tất cả các tác giả.
(19)
“Mất Tí Quyền Lợi Cũng Sốt Ruột”
(Bài phát thanh trên đảo Pulau Bidong)
Người viết: Nguyễn Chí Thiệp
Hôm nay 24.10.1988 thể thức cấp phát thực phẩm mới được áp dụng. Từ hai giờ loa phát thanh kêu gọi đồng bào khu F đến lãnh cá. Vì là hôm đầu tiên nên đồng bào chưa quen với giờ giấc, dù đã có hai buổi hội thảo với các Gia Trưởng và tài liệu hướng dẫn tương đối đầy đủ. Những nhân viên kiểm soát và phân phối đã sẵn sàng tại vị trí của mình, ngoài ra, chúng tôi thấy ông Đin, tân Giám đốc MRCS, tác giả của thể thức cấp phát mới, Cao Ủy Francesco, ông Long Cố vấn khối Tiếp Liệu, ông Hạnh, Trưởng Điều Hợp trại, và một số nhân viên Task Force. Quang cảnh khác hẳn mọi ngày, không còn cảnh tập hợp đông đúc, đồng bào cứ năm người một vào cửa, đến bàn kiểm soát, rẽ tay phải đến các quầy nhận thực phẩm. Trước sau chưa đầy năm phút đã nhận xong những con cá nục mập tròn.
Tại cửa ra, phỏng vấn các đồng bào đi lãnh thực phẩm, mọi người đều đồng ý là thể thức mới rất thuận lợi, đồng bào lãnh thực phẩm rất nhanh và nhất là số lượng cá nhiều hơn trước, những con cá lớn có, nhỏ có, cân đủ lượng theo tiêu chuẩn mỗi người 150 gram, không còn tình trạng như trước kia có người lãnh theo tiêu chuẩn hai cá bé bằng ngón tay, nhưng cũng có người toàn cá lớn. Có đồng bào chi tiết hơn, cho biết số lượng cá được lãnh có thể nói gấp rưỡi hoặc là gấp đôi số lượng trước đây họ lãnh qua trung gian Liên Gia Trưởng, có đồng bào nghĩ xa hơn, nói là đã được các vị Cao Ủy và Ban Lãnh đạo MRCS quan tâm đến quyền lợi đồng bào, họ rất phấn khởi và biết ơn.
Bỗng nhiên chúng tôi nghe bên ngoài có một thanh niên to lớn mập mạp, có ria mép đứng càu nhàu, than phiền nào là thể thức mới quá phiền phức, về nhà làm sao các Gia Trưởng phân chia lại cho người trong nhà cho công bình được? Khi các Gia Trưởng không có cân. Tôi hơi ngạc nhiên, vì hầu hết mọi người đi lãnh cá đều cho là thể thức mới tốt hơn là cách làm cũ, chỉ có anh thanh niên này là chê, dù sao cũng phải nghe các ý kiến, nhất là ý kiến đối lập, biết đâu có nhiều sáng kiến hay hơn chăng. Tôi xin anh cho biết khuyết điểm của thể thức mới này, anh vẫn chỉ một lập luận là các Gia Trưởng không có cân thì không thể chia lại trong gia đình cho công bình được. Tôi nói với anh rằng làm sao có sự công bình tuyệt đối được, trong mỗi gia đình trung bình thường có 12 hay 14 người, thì các nhóm ăn chung khoảng 4, 5 nhóm thì dù không có cân, các Gia Trưởng cũng có thể chia ra một cách tương đối công bình cho người thụ hưởng. Điều đáng chú ý là người thanh niên này không phải là người đi lãnh cá mà chỉ là người đứng ngoài hàng rào để chỉ trích phê phán. Tôi hỏi tiếp, trước kia các Liên Gia Trưởng phân chia số thực phẩm cho số người trong longhouse khoảng hơn 100 người, cũng không có cân thì anh thấy thế nào, và theo đồng bào lãnh cá ra nói cùng một số nhân khẩu kỳ này họ lãnh gấp rưỡi lần trước do Liên Gia Trưởng phát, và họ còn được lãnh các con cá ngon chứ không phải lãnh toàn cá bé, cá vụn như mọi lần, vì một số Liên Gia Trưởng chỉ phát cho đồng bào cá vụn, cá ngon để lại cho người quen, người thân, hoặc dư để bán? Anh thanh niên không trả lời các câu hỏi của tôi. Có đồng bào khều nhẹ tay tôi nói nhỏ, thanh niên đó là Liên Gia Trưởng, bây giờ không được trực tiếp phát lại cho đồng bào, mất quyền lợi nên có ý kiến đả phá cách thức cấp phát mới. À ra thế. Có người mất tí quyền lợi đã sốt ruột, chỉ trích bừa bãi căn cứ trên quyền lợi riêng tư của mình, chứ không phải là người đóng góp vô tư. Ở trong trại có rất nhiều Liên Gia Trưởng cố gắng nhận lãnh thực phẩm cấp phát lại cho đồng bào là một công việc nặng nhọc bởi lẽ khó mà làm cho công bình, cho nên đối với các Liên Gia Trưởng này, việc giao trách nhiệm lãnh thực phẩm cho Gia Trưởng là một điều tốt, bớt công việc cho Liên Gia Trưởng để họ có thể đảm nhiệm công việc chính của Liên Gia trưởng là nắm vững nhân số, huy động đồng bào tham gia công tác cộng đồng, phân phối công bình chỗ ở trong các hộ. Tuy nhiên cũng có không ít người Liên Gia Trưởng xem nhiệm vụ là một món bở để cắt xén gà (mỗi kỳ phát từ ba đến bốn con), cá (dư cho vợ bán lấy khoảng 10 đồng), chuối, dầu, đường, đậu. Họ lấy một cách vô tội vạ, không kể đến quyền lợi của đồng bào. Đối với số không ít Liên Gia Trưởng này thì thể thức mới làm họ mất quyền lợi, mà thanh niên có ria mép trên đây là một trong những Liên Gia Trưởng thành phần thứ hai này.
Thật không thể có sự công bằng cho mọi người, nếu công bằng cho đa số thì một thiểu số mất quyền lợi. Từ trước đến nay trên đảo có một thiểu số có đặc quyền đặc lợi, ho chuyên dùng bạo lực để áp chế đồng bào, áp đặt trật tự do họ muốn, dựa trên quyền lợi của họ, một thứ quyền lợi bất chính tước đoạt quyền lợi đa số đồng bào.
Đồng bào trên đảo đều hoan hô các sự thay đổi mới nay trên đảo, từ hơn tháng nay việc lãnh nước tuy chưa dồi dào lắm nhưmg được nhanh chóng và công bình, không còn cảnh người chờ hàng hai, ba giờ không được cấp phát, mà có người đem sô, thùng tới thì được cấp phát ngang, không còn tình trạng người không đủ nước uống mà người dư nước để tắm, và biếu cho các phụ nữ quen biết để tắm giặt. Tiếp theo việc thay đổi cách cấp phát nước có kết quả, ông Đin, Tân Giám đốc MRCS, thay đổi cách cấp phát thực phẩm tươi mà ngày đầu tiên đã đem lại sự phấn khởi cho mọi người.
Tôi gặp anh Hạnh, Trưởng Điều Hợp Trại, anh Hạnh cũng rất phấn khởi với thể thức cấp phát mới này. Anh Hạnh có nói là vì ngày đầu nên đồng bào chưa quen, có nhiều người tới trễ, hình như là đồng bào chưa đọc tờ hướng dẫn đã được phân phát. Do đó anh Hạnh có yêu cầu đồng bào theo đúng các điểm sau nay để việc nhận lãnh thực phẩm tươi được nhanh chóng hơn:
- Đến lãnh thực phẩm đúng giờ quy định, hiện nay nhiều đồng bào đến trễ nên nhân viên phân phối nhiều lúc ngồi rất rảnh và sự cấp phát sẽ kéo dài.
- Yêu cầu đồng bào kiểm soát lại số lượng được cấp phát tương ứng với số người trong gia đình, nếu có thắc mắc phải khiếu nại ngay trước khi ra khỏi địa điểm cấp phát.
- Khi nhận gà và cá, lưu ý yêu cầu nhân viên cấp phát bỏ những cục muối đá ra, nếu có để tiêu chuẩn nhận lãnh được bảo đảm đúng, khi lãnh rau quả, nếu có phần hư thối thì yêu cầu thay đổi ngay.
Thời gian gần đây những yêu cầu của đồng bào lần lượt được đáp ứng, bộ mặt sinh hoạt trại có những đổi thay theo chiều hướng tốt, dĩ nhiên còn một số khía cạnh xấu vẫn tồn tại, xin đồng bào đóng góp ý kiến với Hội Đồng Đại Diện, Văn Phòng Trại, Văn Phòng MRCS, Phòng Phát Triển Cộng Đồng hay với Cao Ủy Francesco là người có trách nhiệm bảo vệ người tỵ nạn, những đề nghị chánh đáng sẽ được nghiên cứu để giải quyết. Tuy nhiên chúng tôi cũng xin đóng góp cùng đồng bào là sống trong một cộng đồng cũng giống như trong bất cứ xã hội nào, chúng ta có quyền lợi thì chúng ta cũng có trách nhiệm đóng góp vào sự tồn tại và sự phát triển của cộng đồng đó. Chúng tôi mong mỏi đồng bào đóng góp nhiều hơn trong việc xây dựng cộng đồng trại một cách cụ thể, như tham gia vào các công tác làm sạch sẽ trại, tham gia làm việc tại văn phòng trại cũng như các Khối, Ban, đóng góp việc làm giảm hết các tệ nạn từ trước đến nay vẫn tồn tại để cộng đồng người Việt tỵ nạn chính trị trên đảo Pulau Bidong được tốt đẹp hơn.
(20)
Hải Tặc Thái Lan Cướp, Hiếp, Giết
(Tài liệu đem ra từ đảo Pulau Bidong)
Ngày 12-9- 1988 đồng bào tị nạn trên đảo Pulau Bidong rất xúc động vì một chiếc tàu vượt biển từ Việt Nam mang theo 85 người chỉ đến bốn người, trong đó có ba phụ nữ và một em gái nhỏ. Cả ba phụ nữ đều bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp trước khi thả trôi xuống biển. Số người còn lại bị giết sạch hoặc số phụ nữ khác bị bắt đi không rõ số phận ra sao. Bốn người thoát chết đó là:
- Lê Thị X.P, sinh năm 1962
- Dương B. TH sinh năm 1965
- Lê Thị H. sinh năm 1964
- Kiều Thị B.N. sinh năm 1976
Theo lời tường thuật của các nạn nhân thì họ ra đi đêm Mùng 2 rạng Mùng 3 tháng 8 năm 1988 từ cầu chữ Y thành phố Sài Gòn. Sau bốn đêm lênh đênh trên biển, nỗi vui mừng về việc thoát khỏi sự săn bắt của công an Việt Cộng chưa được bao lâu thì đến khoảng bốn giờ chiều ngày 6 tháng 8 họ bị hải tặc Thái Lan tấn công.
Khởi đầu, một chiếc ghe Thái Lan chặn đầu ghe của họ cặp vào, giòng dây buộc ghe vượt biên vào ghe hải tặc. Bảy tên Thái Lan trang bị vũ khí gồm dao, búa, cây sắt và cả súng nhảy qua thuyền đánh tài công, uy hiếp mọi người, sau đó bỏ đi. Chiếc tàu cướp của đi chưa được bao xa thì quanh đó có sáu chiếc tàu Thái Lan khác đến bao vây ghe người vượt biên, mỗi tàu cũng có khoảng từ 6 đến 7 tên vũ khí đủ loại, chúng qua thuyền vượt biên lục soát hết mọi nơi, cô lập đàn ông vào một góc sau đó xuống hầm ghe lôi những người đàn bà nấp ở dưới lên, ngoại trừ một bà già trên 60 tuổi và một phụ nữ có thai, chúng chia nhau khoảng 16 thiếu nữ còn lại cho các ghe. Ba em Lê Thị X.P, Dương B. Th., về một ghe.
Sau khi thỏa mãn xong việc hãm hiếp các phụ nữ, lục soát tìm tư trang không có, chúng giở thủ đoạn giết chóc. Thoạt đầu chúng lần lượt ném từng em nhỏ xuống dưới nước. Cô Lê Thị X.P. có đem theo hai đứa con trai 7 tuổi và 6 tuổi khi thấy ném đứa con đầu tiên xuống, cô cố vùng ra khỏi tay tên Thái chụp một mảnh ván trên thuyền ném cho đứa con đang lặn ngụp thì bị một tên Thái Lan đá vào chân và đập bằng gậy vào đầu, cô ngã ra bất tỉnh nên không thấy trường hợp cái chết của đứa con thứ hai.
Trường hợp em Kiều Thị B. Ng. mới 11 tuổi đang học lớp 7 ở Sài Gòn, cha mẹ cho đi theo với người anh họ khoảng 17 tuổi, hy vọng để em qua Úc gặp bác ruột để tiếp tục việc học, vì trường hợp cha em là lính chế độ cũ nên em rất khó hy vọng được lên lớp 10 trong những năm tới. Thấy bọn Thái Lan ném các em nhỏ xuống biển, em Ng. quá sợ hãi nên phản ứng như người mất trí. Em nhảy theo, nhờ biết bơi, em lặn ngụp dưới biển một lúc. Trong khi đó trên tàu Thái Lan cô Lê Th. H. cũng nhìn thấy đứa em của cô bị ném xuống, cô ra dấu bằng tay xin tên Thái Lan vớt em của cô. Không hiểu do động lực nào xui khiến tên Thái Lan đã nhảy xuống biển, nó không cứu em của cô Lê Th. H. lại vớt bé Kiều Thị B. Ng nhờ đó em được thoát chết.
Em Dương B. Th. kể tiếp rằng sau khi ném xong các em bé xuống biển, tụi Thái Lan bức bách những người đàn ông nhảy xuống biển, người nào không nhảy mà chống cự thì chúng đánh bằng gậy, chém bằng dao, hay búa cho chết rồi ném xuống biển. Những người lóp ngóp bơi trên biển thì những tên khác dùng sào đập trên đầu hoặc nhận chìm xuống nước. Sau đó chúng kéo thuyền vượt biển đi, trên đó còn khoảng 6, 7 người gồm một bà lão và mấy đứa trẻ còn lại.
Sau khi giết chóc, bọn hải tặc Thái Lan đem rượu chia nhau uống xong, sáu chiếc tàu chạy về các ngã khác nhau.
Bốn cô gái ở trên tàu cướp Thái Lan trong hai ngày, ba cô lớn bị chúng thay nhau hãm hiếp nhiều lần đến khoảng 10 giờ sáng ngày thứ ba bọn hải tặc dùng dây thừng cột bốn cô lại với nhau, mỗi cô bị cột một tay, xong chúng đưa cho bảy cái thùng đựng nước, mỗi cái dung tích khoảng 5 lít, cứ hai cái cột làm một, em Kiều Thi. Ng. chỉ có một cái, sau đó chúng thảy cả bốn cô gái xuống biển. Bốn nạn nhân nhờ biết bơi và nhờ những cái thùng nhỏ đó nổi, họ đã nằm trên dây cột thùng và dìu nhau bơi.
Chịu đựng suốt ngày hôm đó, đến khoảng 1 giờ đêm hôm sau thì được một chiếc tàu đánh cá Thái Lan khác vớt. Những ngư phủ trên tàu này lại rất tử tế, nên đã giúp đỡ các nạn nhân tận tình. Sau 16 ngày đi đánh cá suốt trong vùng đó, thì chủ tàu đã đưa bốn cô đến một bán đảo, cho người dìu các cô bơi vào bờ và chỉ các cô đường đi đến trạm cảnh sát. Sau khi trình diện ở trạm Cảnh sát Thái Lan, Cảnh sát đem giao bốn cô cho một gia đình tư nhân, người này đưa các cô vào trong một khu rừng, chỉ có con đường xuyên rừng để đi về hướng Mã Lai. Các cô đi suốt ngày và một đêm đến 9 giờ sáng hôm sau đến một thị trấn có một đồn Cảnh Sát. Đồn Cảnh sát Thái Lan giữ lại trong hai ngày để hỏi cung, sau đó dùng xe chuyển đến một đồn Cảnh Sát lớn hơn (các cô đoán như vậy vì có nhiều xe cộ và nhà cao tầng). Ở thành phố được hai ngày, thì được đưa xuống bờ biển lên một horsbord để đi dọc theo bờ biển, khoảng nửa giờ đường thủy các cô được đưa đến đồn cảnh sát Mã Lai ở biên giới, sau đó được đưa bằng xe hơi về trại tạm trú ở Marang trước khi đưa về đảo Pulau Bidong.
Lý Do Vượt Biển
1./ Lê Thị X. P. sinh năm 1962 tại Cà Ná, Phan Rang, chồng đã vượt biển cách nay 5 năm và đang định cư ở một nước thứ ba. Từ khi chồng ra đi, ở địa phương cô gặp khó khăn vì Công an tìm cách bắt cô, cô phải tránh vào Sài Gòn ở nay đây mai đó tại các gia đình bà con thân thuộc. Bắt không được cô, công an đã bắt mẹ cô giam một tháng mới thả ra. Từ khi mẹ cô bị bắt, Lê Thi. X.P. không còn dám về nhà. Ở Sàigon cô đã vượt biên hai lần trước đều thất bại, may mắn không bị bắt. Lần này đi theo em có hai con trai, một em gái và con của người này và một cháu gái kêu bằng dì, tất cả đều bị chết.
Được hỏi qua lần này em vượt biên bị nhiều gian khổ và tủi nhục, nếu đặt giả thuyết trở lại Việt Nam em còn dám vượt biên nữa hay không? Không một chút suy nghĩ X.P. đáp: em vẫn cứ đi dù khổ sở đến mấy, em đã chấp nhận nếu không thành công thì có chết em cũng cam vì ở Việt Nam em cứ bị truy mãi thì em không thể nào sống được.
2./ Dương Bích Th. Sinh năm 1965, em đã vượt biên nhiều lần bị thất bại, có ba lần bị bắt, lần đầu bị giam lâu nhất là một năm từ năm 1985. Sau lần vượt biên cùng gia đình lần đầu tiên thất bại. Năm 1981 Th. bị đuổi khỏi trường học. Từ đó gia đình em luôn gặp khó khăn, và vượt biên nhiều lần nên em không có hộ khẩu và em không thể xin một loại giấy tờ nào ở các cơ quan hành chánh và Công an. Lần này em đi với người em trai 18 tuổi, lúc ở trên thuyền Thái Lan, em thấy em trai của em bị Thái Lan đập bằng búa trước khi bị ném xuống biển.
3./ Lê Thị H. sinh năm 1964 nhà ở xã Bình Hưng, quận 8 Sài Gòn. Gia đình cô có ba người anh ruột và ông bác ruột ở Mỹ. Vì gia đình có nhiều thân nhân ở nước ngoài nên chính quyền địa phương ghép là thành phần xấu, thâu lại ruộng đất. Gia đình phải sống nhờ vào quà của thân nhân ở ngoại quốc gửi về. Lần đi này cô đem theo hai em trai, cả hai đều bị Thái Lan ném xuống biển chết. Trường hợp ra đi và sự thoát chết của cô như đã đề cập ở trên.
Đây không phải là một trường hợp mới xảy ra. Trong vòng hai tháng từ tháng 7-1988 đến nay, nay là vụ thứ tư mà nạn nhân Thái Lan đến được Mã Lai, còn những vụ hải tặc giết sạch không nhân chứng.
Ba vụ trước nay là:
- Tàu được ghi số MC 115 đi từ Rạch Sỏi, tỉnh Kiên Giang ngày 9-6-1988 gồm 80 người, chết 75 người, 5 phụ nữ đến Mã Lai ngày 9-7-1988 sau khi bị hải tặc hãm hiếp rồi thả trôi, được ngư phủ Mã Lai cứu.
- Tàu được ghi số MC 114 bị hải tặc cướp hết tư trang, 16 người đến an toàn.
- Tàu được ghi số MC 128 đi từ Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ngày 8-8-1988 chỉ còn ba người đàn ông sống sót được đưa đến đảo ngày 12-8-1988, 27 người bị giết chết.
(21)
Thượng Khẩn
Pulau Bidong ngày 29 tháng 10, 1988
Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản tại Pulau Bidong
Kính gửi:
Thủ Tướng Chính Phủ Mã Lai
Kính qua:
- Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Nhiệm Mã Lai
- Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc
- Hội Hồng Nguyệt MRCS tại Pulau Bidong
(Trân trọng kính nhờ quý vị chuyển trình Thủ Tướng Chính Phủ Mã Lai)
Thưa Thủ Tướng Chính Phủ,
Chúng tôi, những người ký tên sau đây, các đại diện chính thức của Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Pulau Bidong, được thông báo: Một phái đoàn trung cấp của Việt Cộng có thể đến trại tị nạn Pulau Bidong với mục đích nói chuyện với cộng đồng tị nạn, hứa hẹn nếu chúng tôi hồi hương thì sẽ không bị trả thù.
Chúng tôi kính đệ trình Thủ Tướng một số quan điểm và lập trường của chúng tôi như sau:
Thứ Nhất: Một phái đoàn trung cấp Việt Cộng sẽ không có thẩm quyền để hứa hẹn bất cứ điều gì.
Thứ Hai: Những lời hứa hẹn của Cộng Sản Việt Nam dù được xác nhận bởi các lãnh tụ Cộng sản cao cấp nhất, cũng không có một giá trị nào.
Thứ Ba: Khi đặt mạng sống của gia đình, con cái và bản thân chúng tôi vào những con thuyền mỏng manh, chấp nhận cái chết và mọi hiểm nguy trên biển, gạt nước mắt rời bỏ quê nhà, chúng tôi đã có một thái độ và một quyết định dứt khoát với chế độ này.
Thứ Tư: Nếu bất cứ ai trong chúng tôi thay đổi quyết định vì bất cứ lý do nào, họ đều có thể liên lạc Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc để tự nguyện hồi hương.
Thứ Năm: Sự có mặt của cán bộ Cộng Sản tại trại tỵ nạn Pulau Bidong như vậy là:
1/ Không cần thiết
2/ Khơi thêm những đau đớn tinh thần mà đồng bào chúng tôi đã chịu đựng trong cuộc chiến tranh vừa qua, sau những hiểm nghèo trên biển, và vẫn đang trằn trọc lo âu về tương lai.
3/ Có thể gây nhiều xáo trộn trong trại tỵ nạn mà chúng tôi không thể kiểm soát và không thể có trách nhiệm.
Đại diện cho Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Pulau Bidong, chúng tôi trân trọng thỉnh cầu Thủ Tướng Chính Phủ, trên căn bản nhân đạo, cứu xét lại việc này, tránh cho đồng bào chúng tôi, những con người bất hạnh trên thế giới, khỏi chịu đựng thêm những nỗi đau đớn chồng chất đã nhiều.
Chúng tôi không muốn nhìn thấy người Cộng Sản tại Pulau Bidong. Chúng tôi cũng không muốn phải nhìn thấy người Cộng Sản tại bất cứ nơi nào trên thế giới.
- Cộng Sản là một chế độ phi nhân, dựa trên bạo lực và những kỹ thuật xảo trá. Với chủ trương chuyên chính, họ dầy đạp mọi quyền tự do căn bản của con người.
- Chế độ này tiêu diệt nền văn hóa nhân bản dân tộc của chúng tôi, thay thế vào bằng một chủ nghĩa quốc tế dựa trên kỹ thuật thúc đẩy đấu tranh giai cấp, khơi dậy hận thù giữa người và người.
- Chế độ này thực hiện chủ trương tập trung tư bản nhà nước, tước đoạt các sở hữu vật chất của toàn dân, đưa đất nước Việt Nam đến chỗ đói nghèo kiệt quệ cùng cực. Đó cũng là tiêu biểu của hầu hết các quốc gia Cộng Sản ngày nay.
- Chưa bao giờ lịch sử đất nước chúng tôi có nhiều nhà tù hơn trường học như bây giờ.
- Các sĩ quan miền Nam được gọi đi “học tập” từ 10 ngày đến một tháng, nay hơn 13 năm qua, nhiều người trong số vẫn bị tiếp tục giam cầm trong các nhà tù, tại các địa điểm sâu kín trong rừng núi. Đó cũng là một bằng chứng về lời hứa của người Cộng sản. Dân tộc chúng tôi đã trả giá bằng xương máu vì tin cậy vào các lời hứa của họ.
Một chế độ như vậy, chúng tôi tin rằng trong thâm tâm Thủ Tướng và tuyệt đại đa số dân chúng Mã Lai chắc chắn không muốn thực hiện trên đất nước đẹp đẽ này. Trong lịch sử cận đại, quốc gia Mã Lai có cái may mắn đã tiêu diệt được mầm mống hiểm họa Cộng sản. Chúng tôi kém may mắn hơn, ngày nay chúng tôi phải có mặt tại đây, phải sống trong sự bao dung và bảo vệ của quý vị. Với sự bao dung đó, chúng tôi duy trì được cái hy vọng làm lại đời sống tại một quốc gia đệ tam, với các quyền căn bản của con người.
Hàng trăm ngàn người Việt Nam từng được hưởng sự bao dung đó. Ngày nay, họ trở thành các công dân Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc Đại Lợi, Pháp, Phần Lan, Na Uy, Thụy điển, Hòa Lan, Đức, Nhật, Ý, Do Thái, Bỉ, Đan Mạch… Nhưng dù sống tại đâu, chúng tôi cũng đóng góp. Dù sống tại đâu, những con người ấy cũng không bao giờ quên những sự trợ giúp cao quý và nhân đạo của chính phủ và dân chúng Mã Lai. Lịch sử nhân loại chắc chắn cũng không quên ghi chép lại cái tinh thần cao thượng này của chính phủ và dân chúng Mã Lai.
Đại diện những người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản tại đảo Pulau Bidong, chúng tôi một lần nữa chân thành cảm tạ các trợ giúp nhân đạo và đồng thời thỉnh cầu Thủ Tướng Chính Phủ và dân chúng Mã Lai tiếp tục nới rộng sự bao dung cao thượng đối với chúng tôi trên căn bản giúp đỡ những con người của một nước láng giềng xấu số đã phải quyết định bằng cách Tìm Sống Trong Cái Chết khi rời bỏ quê cha đất tổ ra đi.
Trân trọng,
(22)
Kháng Thư
Của cộng đồng Người Việt tỵ nạn Cộng sản trên đảo Pulau Bidong
Gửi phái đoàn Cộng Sản Việt Nam
Chúng tôi, cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản trên đảo Pulau Bidong được Đại diện chính phủ Mã Lai và Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, ân nhân của cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản, thông báo các ông muốn đến thăm đảo nhằm mục đích thuyết phục và cam kết cho những ai trong chúng tôi muốn trở về Việt Nam sẽ không bị các ông trả thù vì tội bỏ nước ra đi tìm Tự Do. Chúng tôi khẳng định quan điểm của chúng tôi như sau:
1/ Chúng tôi là những người Việt yêu tổ quốc, chuộng hòa bình và mong mỏi Tự Do, không có tham vọng chính trị. Chúng tôi đã ở lại Việt Nam sau biến cố lịch sử 30.4.1975 cũng chỉ mong được sống một đời sống bình thường, nhưng kể từ ngày đó, bất cứ một người dân Việt Nam hiền hòa nào cũng đã thấy rõ các ông là những kẻ phản bội tổ quốc, dùng bạo lực để áp đặt trên toàn dân một chủ nghĩa phi nhân, các ông là những kẻ vong bản cam tâm làm tay sai cho đế quốc Cộng sản Quốc tế. Chế độ của các ông tước đoạt mọi quyền tự do căn bản của con người, kể cả quyền được sống như là một con người khiêm tốn nhất.
Sự sai lầm về chính trị các ông đã nô lệ hóa toàn dân trong tà thuyết Cộng sản, sự sai lầm về các chính sách kinh tế đưa toàn dân đến chỗ nghèo đói nhất thế giới, sự sai lầm trong âm mưu thôn tính các nước láng giềng đưa cả thế hệ thanh niên đến chỗ chết và đất nước bị cả thế giới cô lập.
2/ Chúng tôi phải lìa bỏ quê hương thân yêu, chấp nhận hy sinh tất cả vốn liếng tinh thần và vật chất của mình, đem sinh mạng đánh cuộc với những rủi ro từ cái chết trên biển cả, đến sự tù đày khổ sai trong các trại tập trung của các ông đầy dẫy cả khắp các miền đất nước.
Chúng tôi phải ra đi vì chúng tôi không thể chịu đựng được sự áp bức về tinh thần, sự câu thúc về thể xác và sự phân biệt đối xử vì khác giai cấp và khác đức tin.
Lãnh tụ của các ông đã từng nói là “không có gì quý hơn độc lập tự do”, nhưng thực tế chính quyền của các ông đã biến đất nước thành một nhà một nhà tù vĩ đại, các ông tước đoạt tự do mà chính vì tự do chúng tôi đã ra đi.
3/ Không sống được trên quê hương, đất nước mình, không tìm được tình thương ở người cùng nòi giống, đó là một sự thực đau lòng, một ô nhục trong lịch sử Việt nam, chúng tôi đành phải đi tìm TỰ DO ở đất nước người, chúng tôi muốn được sống trong tình thương yêu nhân loại và đem tâm hồn mình, đem khả năng của chính mình để xây đắp và bảo vệ tình cảm thiêng liêng đó. Điều này chúng tôi nghĩ là không thiếu ở nhiều quốc gia trên thế giới, trừ các nước Cộng sản, cụ thể là hiện nay chúng tôi đã được sự bao bọc, che chở của Chính phủ và Nhân dân Mã Lai Á, cũng như Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc là tổ chức gồm nhiều quốc gia trên thế giới.
4/ Chúng tôi, những người Việt Nam bình thường, không bị thác loạn về thần kinh nên không một ai trong cộng đồng tỵ nạn Cộng Sản tại Pulau Bidong còn có thể tin được những lời hứa hẹn của các ông, vì hơn 13 năm qua chúng tôi đã được nghe các ông hứa rất nhiều mà các ông không làm điều gì để giữ lời hứa, bao nhiêu viên chức của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa hiện còn ở trong các trại tập trung, bao nhiêu người dân vô tội hiện đang sống quằn quại trong các nhà tù khổ sai làm quần quật suốt ngày mà không được ăn no, bao nhiêu người còn đang bị cầm tù mà không được xét xử hoặc chỉ xử lấy lệ, và chúng tôi biết chắc rằng dù các ông có hứa điều gì thì nếu có ai trong chúng tôi trở về thì người ấy cũng thoát khỏi số phận đó.
5/ Chúng tôi đã ra đi, sự ra đi nhiều đau đớn, nhưng chúng tôi không trở về một khi chế độc Cộng sản của các ông còn tồn tại và ngay bây giờ toàn thể cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản trên đảo Pulau Bidong không muốn nhìn thấy sự hiện diện của các ông tại đây.
Chào các ông,
Làm tại Pulau Biodong ngày 29 tháng 10, 1988
(23 đại diện ký tên)
(23)
THƯ California
Davis ngày 1 tháng 11 năm 1988
Trạc thân mến,
Nhận thư mày, tao biết trả lời gì? Nối tiếp những lời lăng nhăng chỉ là vô nghĩa. Tao không có tính phóng đại và phóng ngoại những tình cảm để làm phong phú cõi lòng một cách giả tạo. Vậy nên ít viết thư. Đó cũng là một nhược điểm.
Trần Danh Chương đã đổi địa chỉ. Tao đã nhờ anh em bạn ở Virginia tìm nó. Nó chắc chắn sẽ được tin anh Anh trong một hai ngày. Cho tao hỏi thăm anh Anh. Mà hỏi thăm thì cũng suông quá. Không có gì gửi tặng ảnh, thật áy náy trong lòng, kể lể hoàn cảnh tao hiện tại thì nhàm nhảm.
Về mày, với lòng tao là bạn, hiểu theo giá trị liên hệ ở Ngũ Luân. Đại trượng phu mười năm không nói lời thăm hỏi, tình vẫn y nguyên, đó là điểm khác với đàn bà con trẻ.
Về bốn dự đoán của mày, gần đúng thôi.
- Một là: tao buồn, nhưng không chán
- Hai là: tao đau, nhưng không ốm
- Ba là: tao già, nhưng không yếu
- Bốn là: tao vẫn thân với mày (Điểm này mày sai bét)
Tâm lý học hiện đại, công bố một khám phá mới: đàn bà, thông thường, là loại rất khó đối xử: gần thì nhờn, xa thì oán. Bọn mình là đàn ông.
Thân ái,
Chép tặng mày bài thơ tao làm cho mày cách nay độ một tháng.
Gửi Trạc
Người xa thư thăm hỏi
Người vẫn chẳng quên tôi
Cầm bút, không đành viết
Thương nhau cũng thế thôi
Buồn đi qua nửa đời
Sao buồn quá, buồn ơi!
Ngậm ngùi xoa mái tóc!
Tuổi tác lững lờ trôi
Chiều nay ngồi tựa cửa
Đợi gió về, hoang mang
Thi thư cũng chán nản
Đường dài bước lang thang
Tao đang: mê, tỉnh rất lựng khựng
Ở đây, mùa thu đến vội vàng./
Trần Lam Giang
(24)
Nov. 10 – 1988
Dear anh Trạc
Thế là tạm thời chia tay nhau. Thời gian trôi qua mau quá, nhớ ngày nào ở Kuala Lumpur anh em mình gặp nhau một đám mấy người. Bay giờ như mây trôi mỗi người một ngả. Em thấy anh ra đi tấm lòng nên thanh thản vì anh đã làm đúng sức mình và đóng góp nhiều cho Cộng đồng. Sau này người vào thế sẽ có một tough act to follow. Đồng bào ở đây quyến luyến và quan tâm đến tình hình an nguy thế nào. Em vẫn bảo họ rằng chúng mình không phải là người Mã hay người tỵ nạn, do đó mình không sao cả, chỉ rời đảo này sớm hơn dự định. Hôm qua lão cảnh sát Gani có mời em lên nói chuyện vụ biểu tình và cô bé vụ trên chùa. Em rất điềm đạm về các câu trả lời, playing innocent và thành thật. Also professional, too. Hiện giờ thì có một chiêu là tụi nó muốn disband khối an ninh và thế người tụi nó vào. Bên Liên Hiệp Quốc thì có Francesco ủng hộ mình để ngăn ngừa việc đưa người xấu vào, nhưng có lẽ không ngăn cản được hết. Tạm thời mình án binh bất động để xem sao. Vụ con bé Hoa, tới chiêu tiếp này thì có lẽ em cũng đi theo anh luôn vì hôm qua đã có giọng đe dọa. Hôm nay em viết cho Egeh một report nữa về vụ tụi Task Force nó buộc con nhỏ phải viết một báo cáo thì mới được thả về lại. Việc em làm tại đảo cũng đã gần xong và cũng thỏa mãn rồi, chỉ tiếc là mình còn nhiều người tỵ nạn ở đây quá. Tụi Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ đã có ý muốn không lấy người cố vấn Việt Nam vào nữa, do đó, anh có ý định gì thì giữ lấy cho anh và làm đi, như viết báo – nhưng đừng trêu chọc tụi nó, bẹo hình bẹo phổi làm chi, để tụi nó có cớ mà hủy chức counselor này, không tốt cho đồng bào Việt Nam tại Mã Lai này.
Hình ảnh em sợ tụi nó xét lấy nên giữ lại những tấm kia, chờ đưa ra sau. Hy vọng anh khỏe. Nếu ra Kuala Lumpur thì liên lạc chị Uyên cho vui. I do not have your address in the USA. Vụ anh với bà H. đã làm cho bà ấy mất thế lực là những gì bà ấy viết chứng nhận thương tích cho đồng bào không còn giá trị nữa. Và tiếp theo đây là một lời unsolicited khuyên của em: Anh có thương bà ấy thực tình thì tốt, nếu không thì đừng làm người ta khổ. Bà ấy có vẻ thương anh rồi, và bà ấy có ước vọng có con một ngày nào đó, đừng tạo thêm cảnh con rơi nữa, chỉ khổ cho đứa bé mà thôi. Tới đây chấm dứt lời khuyên.
My address in the USA:
MY TRAN … San Francisco, CA 92117
Đây là hòm thư, không thay đổi. Và ông nội ơi, đừng có gọi collect vì em không đi làm một thời gian lâu khi em về Mỹ. Không có tiền trả điện thoại collect cho anh đâu. Em muốn nghỉ xả hơi. Có gì viết thư, nhưng nên nhớ là if your name appears on the envelope, the letter will be read. Thôi, take care.
Em
Mỹ
(25)
Pulau Bidong, 14-11-1988
Trạc
Mọi công chuyện tiến triển bình thường, mọi người ở đảo đều xúc động và rất mến anh, họ tiếc là anh đi sớm và không có chia tay.
Tôi chờ đi.
Cố gắng duy trì cho trại các số báo – gởi cho văn phòng Phát Triển Cộng Đồng hoặc cô Bích
Tôi e thư từ, báo chí gửi lên anh họ trả lại.
Hẹn gặp tại San Jose
Thân, Nguyễn Chí Thiệp
(26)
Bangkok Nov 22, 1988
Ông Ngô Vương Toại,
Tôi bị trục xuất ra khỏi đảo Pulau Bidong từ ngày 2 tháng 11. 1988. Ra nằm chờ đồ đạc quần áo, lên Kuala Lumpur lấy giấy máy bay, hiện giờ chơi ở Bangkok 15 ngày, đến 4 tháng 12 thì bay về đến San Francisco.
(27)
Bidong đêm buồn
Chú Trạc kính,
Từ ngày chú đi cho đến nay con rất là buồn, nhưng con không hay là chú đi luôn, chú không bao giờ nói cho con hay, nhưng đến ngày mà chú đánh điện thoại cho cô doctor cô ấy mới được cái tin đó như sét đánh nhưng con cũng huy vọng là chú sẽ vào nữa, con mong chú cho đến ngày cô Mỹ vào mà con không thấy chú là con nghi rồi, nhưng đến mấy ngày sau là con nhận được tin buồn thật là buồn. Con giúp cho cô Mỹ lấy hết tất cả các thứ đồ mà chú cần thiết đó, rồi đêm sau con và cô Mỹ cùng với bà doctor và chú Thiệp vào phòng chú lấy hết những cái gì mà chú nói trong thư đó chú. Thôi đến giờ con phải đi học rồi, con luôn cầu chúc cho chú lên đường bình an và vạn sự như ý muốn của chú, con sẽ biết rằng từ nay con không còn gặp chú nữa phải không chú.
Con của chú
Nhơn
(28)
Kính chúc Bác Trạc
Đầu thơ con không biết nói gì hơn trước hết con chúc Bác Trạc được nhiều sức khỏe và đi đâu cũng gặp nhiều may mắn và gặp nhiều điều tốt đẹp. Bác Trạc ơi lúc này bác có khỏe không hả Bác ở bên đây con cũng khỏe bác Trạc ơi ở bên đây con có nhận được cái thơ của Bác gởi nhờ người đưa cho con và người đó có đưa cho con và trong đó có một tấm hình của Ba con, con rất cảm ơn bác. Bác Trạc ơi ở bên đây con đi học chớ không có đi chơi. Bác ơi ở bên đây con lên Bàn 4 con được nhận rồi. Bác Trạc à nhưng con rất Buồn khi Ba con chết. Ba con chết tai nạn của con Ba con đã hy sinh cho con./.
Thôi đến đây con tạm dừng bút con hẹn lại thơ sau viết nhiều hơn.
Con tên là Lê Hoàng Tuấn
(29)
Ba Tháng Sau Tại Mỹ
Califronia, Dec 14-88
Anh Trạc
“Dẫu đi khắp cả chân trời
Cũng không kiếm được một người mà yêu”.
(Một thi sĩ tài cỡ Rimbeau đã viết thế, tuy không nổi danh bằng Rimbeau, nhưng những người không ai biết tiếng, chưa chắc họ đã không có tài bằng những người nổi tiếng – một anh bạn tôi – không hề viết văn – trong một bữa nhậu tự dưng quắc mắt nói với tôi như thế.)
Anh khoe là anh sắp sửa lại đi, có lẽ đối với những tâm hồn cục mịch, chất phác (như anh Giang, anh Tô… ) thì họ phục lắm. Còn đối với tôi, chả bõ bèn gì.
Từ hồi nhận được mấy cái thư và bưu thiếp anh khoe cảnh lạ đường xa, tôi có hơi nao núng. Nay thì hết rồi. Sau khi tôi đọc liền trong hai tháng, trên 10 số báo National Geographic, tôi thấy các kinh nghiệm lịch duyệt của anh không thể làm dụ hoặc được tôi. Lý do là Nat. Geo mà còn không ăn thua gì, vì muốn xem cảnh lạ, tôi chỉ cần bỏ $3 đi xem xi nê, các cảnh kinh khủng gấp mấy: My Step Mother is an Alien (Kim Basinger đóng), Gorilla in the Mist (Sijourney đóng)… hoặc ghê hơn nữa: E.T. của Spielberg vân vân.
Không đâu đẹp bằng… nơi mình hiện ở. Nhất là chỗ tôi ở Nam Cali. Ở đâu có những người sâu sắc mà mặt mũi cứ lầm lầm lì lì (như anh Nguyễn Mộng Giác)… Mã Lai chăng? Ở đâu có những người nhậu mà đọc thơ hay (như anh Mai Thảo)… Singapour chăng? Ở đâu mà có những người trên 60, vẫn say sưa làm nhạc trí tuệ, không mệt mỏi, lại biết cả computer I.B.M (như anh Phạm Duy)… rừng già Nam Dương chăng? Ở đâu có những người đầu mùa Đông mà trên 40, vẫn sơ mi trần ngồi uống bia, thoắt cái đã có hai câu thơ mở đầu một lá thư sâu sắc một cách cương nghị (như tôi bay giờ)… ở Phần Lan, Na Uy, hay … Thụy Điển??
Mấy hôm nay từ hồi anh về, anh không gọi điện thoại cho tôi (trừ có hai lần, hôm mới về). Tôi biết là tính anh vẫn như xưa: hiếu thắng, và sau khi đi xa về, anh làm ra vẻ đau khổ, quan trọng hóa, chín mùi… vân vân… Nhưng chung quy sự im lặng ấy của anh chỉ là một mặc cảm thua sút, lạc lõng nhà quê, chậm tiến: Trong khi anh đi Á Châu, thì ở Cali người ta ai ai cũng tiến bộ theo những tiến bộ chung ở thế giới (mà Mỹ là dẫn đầu). Riêng tôi, thì tôi còn tiến nhanh hơn, vì tôi vừa hay giao thiệp người này người nọ, lắng nghe, xem xi nê và tranh ảnh, đọc báo chí luôn để mở mang kiến thức. Tôi biết là tôi với anh khoảng cách ngày một xa dần, hết còn Nam Thăng Long, Bắc Văn Lang như xưa, vì trí óc chậm lụt của anh, tôi không muốn gọi điện thoại cho anh để nghe anh toàn là Hả… Thế Hử… và nghe khoe những cô Tàu lai Tích Lan, Ấn lai Mã… bán tỉm sắm cho anh ở xó xỉnh nào đó bên Bali.
- Những anh nào kém mới phải ra đi.
- Anh nào đi xa, có tật hay khoe. Lúc về nhà, thích được mọi người chú ý.
- Một gia đình, một quốc gia… mà ai cũng chỉ lo đi cả, ai là người làm việc? (ai đánh nhau? Ai nhổ răng?)
* Xứ nào có nhiều freeway hơn ở đây?
* Xứ nào không có muỗi như ở đây?
* Xứ nào nhiều đồ ăn như ở đây? (Pizza, Shiskabob, Taco, Phở, mì, tỉm sắm, sushi…)
- Ông Pandit Nehru khi đọc diễn văn ở Bombay trước người nghèo, kiếu từ ra về, được dân thương, kéo nhau nằm lăn ra đường rầy xe lửa để tiễn. Ông đi rồi, còn được dân hôn lên đường rầy để tỏ lòng yêu. Khi anh ra khỏi đảo, anh có được 1/100.000 như vậy không?
- Anh tranh đấu cho đồng bào có ngang tàng đến mức tổ chức các tay terrorist chống lại bạo quyền, như ông Arafat bên Ả Rập không?
- Anh có trích lương cho hết dân tỵ nạn như Soeur Mỹ Hạnh không (hay còn giữ lại 4/5 để làm của riêng: ăn chơi, du hí)?
Thay Lời Kết:
- Chỉ những người khiêm tốn, im lặng, quên mình trong bóng tối, mới là những người lớn: Mai Thảo
- Người Im Lìm là người hố thẳm nhất: Phạm Công Thiện.
Chào anh.
Vũ Huy Quang
(30)
Thư Gửi Pulau Bidong
(Không đề ngày)
Gửi Thiệp và xin chuyển tất cả quý vị quen biết, tất cả các bạn.
Tôi đã nhận được: 1/ Số tranh của các hoạ sĩ Bidong, cô Mỹ chuyển ra. 2/ Thư của Tạ Thanh Nhơn và Lê Hoàng Tuấn. 3/ Cuốn thơ của anh Phan Xuân Hiệp (đã chuyển cho anh Bùi Đức Lạc, báo Chuông Việt). 4/ Một số thơ anh Thiệp đã cho phát thanh. Tôi dự định in (khi có điều kiện). Còn bài viết của anh Thiệp về vụ tàu MC 136, đã đưa báo Người Việt Bắc Cali đăng. 5/ Đã nhận thư Ninh. 6/ Mới nhận cái thiệp Tết của Thiệp nói là không hề nhận được thư tôi từ ngày tôi rời đảo (?!)
Nếu quả như vậy thì thư tôi đi đâu hử toàn thể quý vị? Tôi gửi thư cho các bạn khá nhiều, không nhớ hết là bao nhiêu. Ra Trengganu gửi một số thư tay qua cô Bác sĩ H. chắc chắn các bạn đã nhận. Qua Bangkok và về Mỹ, tôi đều viết thư cho các bạn nhiều lần qua tên và địa chỉ cô Bích. Tôi cũng đang thắc mắc không thấy cô Bích trả lời một chữ, ít nhất để tôi hiểu là còn liên lạc với các bạn được không. Hoặc giả cô Bích bận lắm? Có ai vào thế chỗ cô và tôi không? Chúc lành cho tất cả các bạn (Thực đấy, tôi xin cầu nguyện Trời, Chúa, Phật mọi điều lành cho tất cả các bạn thân mến của tôi).
Cách nay vài tuần bỗng dưng điện thoại reo. Tôi a lô thì nghe có tiếng mừng rỡ: “Anh Trạc hả? Thăng đây…” Tôi ngần ngừ không tiện hỏi Thăng nào, thì bên kia cũng ngần ngừ “Thăng ở Văn phòng trại đây. Em làm với anh Cường”. Mất mấy giây nữa, tôi mới hình dung ra hắn. Anh chàng gầy gầy, hôm hắn đi định cư tôi có mua tặng một cái sac. Có lẽ hắn buồn vì mấy giây ngần ngừ ấy. Và sau này không bao giờ liên lạc lại nữa.
Thiệp ạ, cuộc sống ở đây có những cách thức khác. Tôi chưa làm lụng gì nuôi thân từ hôm về Mỹ đến nay. Cả gia đình sống nhờ trên số tiền cấp dưỡng người già của hai cụ tôi. Các con tôi đang đi học. Chúng phải làm việc vặt: cắt cỏ, cưa cây ngày cuối tuần… đủ trả những chi phí mà chúng phải có: tiền xăng, tiền mua trả góp cái xe hơi, tiền bảo hiểm xe hơi… đều là những thứ phải có… phải có xe hơi để di chuyển, đi học, đi làm. Có xe phải có xăng, phải có bảo hiểm vân vân.. Xin lỗi các bạn, tôi bắt đầu dài giòng lẩn thẩn.
Nhưng, như đã đôi lần nói chuyện với Thiệp ở trong đảo, kết luận là mình phải đi làm cái tương đối thôi.
Hello Thi sĩ Thu MC 127! Thơ của cô hay lắm. Tôi hy vọng sẽ có ngày có điều kiện vật chất để thu xếp in lại tất cả những bài thơ, bài viết, hình vẽ ở trong đảo. Điệp viết bài “Thư gửi Mẹ” nhưng tôi không dám đọc. Tôi sợ sướt mướt lắm. Nhưng có ngày rồi tôi sẽ đọc.
Số tranh dầu và tranh đen trắng, tôi đã đem triển lãm ở Hội chợ Tết ở San Jose tuần rồi. Sau đó sẽ gửi cho một cơ quan tỵ nạn trên Seatle, họ cũng muốn triển lãm trên ấy. Bức tranh “Mẹ con tỵ nạn” của Giang Xú Chảy, có người quen tôi nhìn rồi nói là… lạnh mình. Chảy đã được nhận đi đâu chưa? Nguyên đi Úc có thư về chưa? Tươi ra sao, còn vẽ áo không? Tình hình trên đảo hiện ra sao, không thấy Thiệp nói gì cả? Cao bồi du đãng còn mặc áo vét cắp cặp mở quán cà phê không? Đồng bào mới tới nhiều không? Đến mùa vượt biển rồi. Thiệp bị kẹt vụ gì không? Nhờ Alan và Francesco được không? Ninh có được nhận định cư đâu chưa? Cô Hương thế nào, cô Hương? Bây giờ không làm việc trong đảo, không còn phải giữ luật nữa. Tôi xin tỏ tình với tất cả các cô. Mỗi lần ở đây đi mua bánh mì thịt nguội đều nhớ đến cô.
Còn cô Thu MC 127, xin cô tiếp tục sáng tác.
“…Em kể tôi nghe trong một đêm mưa gió
Một đêm Bidong sóng biển thét gào
Một đêm mà: Nước mắt chạy quanh
Em khóc và lòng tôi cũng khóc…”
Chỉ xin nhắc cô khóc với ai cũng được, đừng khóc với ông Thiệp. Bởi vì ông này sẽ khóc hu hu. Hóa ra mọi người đều khóc. Và đời này đã và đang là một đại dương đầy nước mắt!
(Thư này không gửi)
*
Nguyễn Bá Trạc
Những lá thư và tài liệu này đều in ở Chương 24: THƯ BI ĐÔNG, trong cuốn Ngọn Cỏ Bồng Toàn Tập, xuất bản tại California năm 1995