User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
binhphamtatcachiconnoinho
 
Sử liệu và chứng nhân lịch sử
 
Tập bút ký “Tất Cả, Chỉ Còn Nỗi Nhớ” (TCCCNN), là một sử liệu, và tác gỉa là một nhân chứng lịch sử.
 
TCCCNN, có 205 trang, gồm 31 tiểu mục, viết về ba giai đoạn, đời của nhà văn, từ những ngày tuổi thơ, thời Việt Nam Cộng Hoà, đến 30/4/1975, và sau đó, chế độ CS, cho tới ngày vượt biên, Canada.
 
Về hình thức, nhan sắc của cuốn sách, quá sang trọng, quý phái, dễ gây cho người đọc, khi chạm vào, xem như, một hoa khôi sách, giữa một vương quốc của sách, của thế giới văn chương.
 
Theo tác gỉa, bìa sách là tranh của Mina Ho Ferrante (Hồ Mộng Nhã Uyển), đoạt giải nhất của Festival Des Films vào tháng 11, năm 2023 tại LA. Cô họa sĩ này là con của người Thầy, thầy Hồ Sĩ Hùng, Hiệu Trưởng trường Kỹ Thuật, Đà Nẵng.
 
Sách viết, chia làm ba nội dung, như tuổi đời tác giả, kinh qua, ba giai đoạn của một đời tiểu thư.
 
Bà sinh năm 1956, qua những trang sách bà cho đọc, qua những tấm hình bà cho nhìn, từ lúc sinh, sinh ra trong bọc điều:
 
“Vừa lúc đó, một cái bọc trắng hồng thấp thoáng ló ra, ông Y Tá lần đầu gặp cảnh này nên áy náy, lo lắng lắm, và rồi cái bọc đã nhú ra”.
 
Phải hiểu vị thế tiểu thư của bà, mới thấy sự khủng khiếp, khi bà chạm phải, những gian khổ của chiến tranh và gian ác, bất công, sau cuộc đổi đời 30/4/1975.
 
Bà sinh 1956 tới 1975, thời của chế độ Cộng Hòa.
 
Từ 30/4/1975 tới ngày xuống tàu vượt biên 19/6/1980, thời của chế độ cộng sản.
 
Sau những ngày, năm chị em lênh đênh trên biển cả, bà đã đến được thành phố Montreal/ Canada, định cư cho tới nay.
 
Chúng ta hãy đọc những trang viết của bà:
 
“Những buổi sáng tinh sương trên miền trung du Trung Phước, trong khi mẹ qua Nông Sơn buôn bán, tôi cùng ba trên chiếc ghe con, lượn sóng trên sông Thu Bồn êm ả đùa vui cùng con nước. Chiều về, trên lưng nội rong chơi đây đó.
 
Tuổi thơ tôi, một thời tươi đẹp trên quê hương thanh bình.”(Hạnh Phúc Sau Cơn Lốc, trang 12)
 
“Từ khi có trí khôn, học lớp một, tôi đã có những ngày Trung Thu, mà không thể nào quên được khi còn ở miền trung du Trung Phước.
 
Cứ mỗi năm vào ngày Rằm tháng Tám âm lịch, trên bàn nhà có rất nhiều kẹo bánh, con nít mà, thấy kẹo bánh thì thòm thèm, tôi hay cạy thùng để ăn vụng.”(Trung Thu, Ký Ức Tuổi Thơ, trang 29 )
 
“Ba tôi ra Đà Nẵng, ghé nhà thương Paolo khám bệnh, sau đó về Trà Kiệu thăm bà con, bạn bè.
 
Lúc đó, đúng vào thời gian đảo chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ngày 1/11/196, có một số sinh viên Saigon về, trong đó có một người quê tôi, đã đến nhà đập bàn, nạt nộ ông Nội tôi, bảo phải giao số tiền hai triệu, mà ba đã nhận của ông Ngô Đình Nhu, để mua đinh và bao bố, rồi bắt những người Phật Giáo, đóng đinh trên đầu họ, bỏ bao bố, thả trôi sông. Họ đặt điều ác, cho Ba, Mẹ tôi.”(Hạnh Phúc Sau Cơn Lốc, trang 14)
 
“Một buổi tối, thấy mọi người ai cũng vừa đi, vừa chạy thật vội vã trên đường trước mặt nhà tôi. Không bao lâu sau, từng đoàn lính Nghĩa Quân, Địa Phương Quân tiến về hướng mỏ than Nông Sơn.
 
Trong đêm rút quân này, chú Hậu chạy vội vào nhà, nói với Mẹ:
 
- Chị Hai nói anh Hai đi lên Cà Tang, Nông Sơn liền trong đêm nay, tụi em rút quân, bỏ ngõ Trung Phước rồi.”(Chiến Tranh Và Tuổi Thơ Tôi, trang 39)
 
Năm 1976, sau khi học tập chính trị, đả thông tư tưởng “Lao động là vinh quang“, quận 3, Đà Nẵng, nơi tôi cư trú, chỉ thị mỗi gia đình phải có một người đi lao động nghĩa vụ trong một tháng ở Tiên Phước.
 
Gia đình tôi có ai đâu, việc gì khó con cả gánh hết, thế là tôi bắt đầu lo chuẩn bị đồ đạc, xoong nồi, chén bát, thuốc sốt rét.
 
Đến Tiên Phước vào một buổi chiều, nhận chỗ ở, ngày hôm sai đi phát rừng liền. Trên đường đi, tôi thấy nhiều con vắt có màu nâu, lúc nhúc trên những lá khô, mục, còn trên những cành cây là màu xanh lá, chúng biến hóa theo màu lá với môi trường đang sống.
 
Khi đi ngang qua những tàn cây, nó thường nhảy, búng theo mình, còn dưới mặt đất, chúng thường búng lên giày và len lỏi chui nhanh vô trong, mỗi kẽ chân, mỗi con bám chặt vào. Bình thường, chúng nhỏ như que tăm, nhưng khi hút máu no, chúng tròn như bánh men con sâu, trẻ nhỏ hay ăn.
 
Có một lần đi ngang mấy bụi rậm, vắt búng vào người và bò lên tới cổ, nghe bạn bè la lên: “Bình, vắt bò lên cổ mi kìa, coi chừng nó bò vô trong“
 
Thế là tôi vất rựa, không cần biết có đụng vào ai không, hai tay phủi lia lịa, miệng la làng, nước mắt chảy đầm đìa, mặt cắt không còn giọt máu.”(Lao Động Vinh Quang Sau Ngày Đổi Mới, trang 101)
 
Năm 1975, sau khi tốt nghiệp phổ thông cấp Ba, chúng tôi bảy đứa nộp thi Đại Học ở Huế.
 
Khi xếp hàng chờ lấy số báo danh trên đường Lê Lợi, nhìn sơ qua tôi đã đoán trước được, là không có đứa nào đậu cả, vì có quá nhiều bộ đội xếp hàng. Họ là những người có điểm cộng rất cao, còn chúng tôi, hầu như đứa nào cũng có điểm trừ, không nhiều thì ít.
 
Tôi nói với các bạn:
 
- Lần này, tụi mình ra Huế chơi một chuyến rồi về, không có đứa nào đậu đâu.
 
Đúng như lời tôi nói với các bạn, không một ai đậu cả, mặc dầu bài thi không khó với chúng tôi.
 
Chuỗi ngày này thật buồn, rất buồn, thấy tương lai mù mịt, bạn bè thi nhau kiếm đường đi, có đứa đi lâm trường, làm việc trên miền núi, có đứa đi làm đường sắt (những bạn này học rất giỏi, nhưng gia đình nào cũng dính chính quyền cũ, nên đành chấp nhận), đa số các bạn tôi, làm giáo viên với “sư phạm đứng”, không cần phải qua trường lớp, về quê cần giáo viên, họ mời vô dạy, “sư phạm ngồi” (học 6 tháng, ra đi dạy), “sư phạm nằm” (học 1 năm, dạy cấp I, học 2 năm, dạy cấp II) - (Tuổi Trẻ Trong Thời Bao Cấp, trang 103, 104)
 
Sau 5 năm của thời bao cấp, tôi đã chứng kiến, trải qua bao nhiêu sự khổ cực, chèn ép của các đợt nghĩa vụ, ăn uống kham khổ đi dạy học, sinh bệnh tật, thuốc men không có.
 
Để sống còn, tôi và bốn người em rời Việt Nam trên một chiếc tàu nhỏ vào đêm 19/6/1980.
 
Chuyến đi thật hãi hùng, nhiên liệu và thức ăn không đủ cho chuyến hải hành, cộng vào đó, số người đi tăng gấp đôi với dự liệu lúc ban đầu.
 
Thuyền chúng tôi hai lần gặp bão, tưởng đâu sẽ chết trong vài phút tới với ngọn sóng phủ đầu cao nghều nghệu. May thay, cả hai lần, thuyền của chúng tôi đều được cập bến bình an ở đảo Hải Nam.
 
Sau 13 ngày với cuộc hành trình chịu nhiều sóng gió, đói khát cơ cực với nắng mưa, phong ba bão tố, bị ngư phủ Tàu quăng dây vào thuyền chúng tôi định cướp, may mắn các chú cắt dây kịp thời và thuyền chúng tôi chạy thoát.
 
Cuối cùng chúng tôi cũng đến được bến bờ tự do bình yên, được tạm trú trong trại tỵ nạn Kaitak East, Hồng Kông.
 
Thuyền chúng tôi mang số 1059.(Quebec, Đất Lạnh Tình Nồng, trang 112)
 
Sau 7 tháng 23 ngày ở trại Kai Tak, East Hồng Kông, năm chị em tôi được hội Covipa ở thành phố Quebec bảo lãnh. Hội do một nhóm người Việt thành lập trong tinh thần tương thân, tương ái, lá lành, đùm lá rách.
 
Khi tuyết rơi nhẹ, nhìn giống như tơ trời giăng khắp lối. Những bông tuyết óng ánh liệng qua liệng lại trông đẹp làm sao.
 
Có những đêm, từ trường Đại Học Laval về nhà, với ánh đèn đường, từng sợi tuyết chảy dài quanh tôi, tôi thong dong, lang thang trong tuyết để được ngắm cảnh giăng tơ của đất mới. Những bông tuyết óng ả, óng ánh đậu trên môi, mắt, áo quần, như đang tươi cười mừng đón, chào tôi trong cuộc sống mới.
 
Lúc này, một cảm giác yên ả, tâm hồn bình yên, tôi mỉm cười với cuộc đời tự do, tung tăng từ đây.(Tuyết Rơi, Kỷ Niệm Đầu Tiên Nơi Xứ Người, trang 125)
 
Tất Cả, Chỉ Còn Nỗi Nhớ
 
Là bút ký của một phận người, là tiếng nói, gào, la, thét, của một người, thay cho tiếng nói, gào, la, thét, của muôn người, trăm họ.
 
Qua đó, ta thấy, hết và rõ, tác phẩm, ngang tầm một hoa khôi sách, nghĩa đen, cũng như nghĩa bóng, còn là một chứng liệu lịch sử, mà người thai nghén ra nó, là chứng nhân, của một giai đoạn lịch sử, nhiều tiếng khóc, hơn nụ cười, nhiều khổ đau, hơn sung sướng.
 
Và điều này, chưa biết tới bao giờ là ngày hoan ca.
 
Đoạn văn sau đây, tác giả Bình Phạm dùng nó, cho một khởi đầu, cũng là một kết thúc.
 
Những ai không có sách đọc hay thời gian để đọc, chỉ cần đọc đoạn văn này, là hiểu rõ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và những điều tác giả muốn tỏ bày.
 
Tôi tin như thế.
 
Bình Phạm:
 
Đời người ai cũng có những trải nghiệm buồn, vui, tôi không ngoại lệ. Có những kỷ niệm, chỉ còn nỗi nhớ, luôn bám víu suốt cuộc đời tôi.
 
Những ngày tháng thanh bình trên quê, miền Trung du Trung Phước, nơi đó, có những chuỗi ngày yên ấm bên gia đình, niềm vui, hạnh phúc của tuổi thơ tôi ẩn hiện trong ký ức, luôn nao nức quay về.
 
Những nỗi buồn đau in sâu trong hồn qua cơn xoáy lốc lịch sử mà gia đình tôi đã vượt qua, không làm sao quên được.
 
Những thương tích tâm hồn của trẻ thơ, chứng kiến trong những ngày đầu của cuộc chiến tranh dã man, máu và nước mắt của đồng bào đã thấm sâu trong hồn tôi, lòng yêu thương đồng loại đã hình thành một cách rõ ràng trong tôi từ dạo đó. Tôi thù ghét chiến tranh!
 
Những khoảnh khắc chứng kiến dưới bom đạn, nỗi lo âu, sợ hãi trong đêm lửa trại, những câu chuyện kể của Cô giáo về gia đình Cô trong Tết Mậu Thân, đã để lại vết sẹo trong lòng tôi.
 
Những hãi hùng, tuyệt vọng, của chúng tôi trong đêm bão tố ở chiếc thuyền nhỏ mong manh trên biển cả, bốn mươi bốn năm trong cuộc sống lưu vong trên xứ người, với biết bao trầm buồn, lạc lỏng, cơ cực với cơm áo gạo tiền. Tất cả gom lại, đánh đổi lòng nhớ thương, yêu Quê Hương mỏi mòn trong tôi.
 
Những kỷ niệm này, từ lâu, tôi muốn ghi lại dưới những bài bút ký, mục đích để cho các em, con, cháu biết về cuộc đời của Ông Bà, Cha Mẹ, Anh Chị, Bà Con đã trải qua trong thời gian nhiễu nhương của đất nước.
 
BP.
(Montreal, 30-12-2024)
 
Lê Mai Lĩnh
Pittsburgh, Pennsylvania
5/22/2025
 

 

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com