Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive
 
vamkinhcu
 
Tôi bây giờ hay quên lắm. Một bữa tôi đến nhà chị Lộc Tưởng, chị tổ chức cookout sau nhà, chờ trời tối coi pháo bông nhân dịp lễ July 4. Bữa đó, có đồ ăn ngon, lại được gặp nhiều người thân quen, tôi hứng chí uống hơi nhiều bia rượu, khi ông Đoàn Đông kể chuyện vui về Con Nhỏ Nhà Quê làm tôi ngẫm nghĩ cười hoài. Bữa đó, tôi có nói sẽ viết vài cảm nghĩ về quyển sách mà chị Lộc Tưởng sắp in. Vậy mà tôi quên mất. Một thời gian sau, chợt nhớ lại thì thời gian đã qua đi hơn tháng trời. Bởi vậy, tôi sợ mình bị chứng Alzheimer là bệnh mất trí nhớ. Hồi thời tôi còn học, Alzheimer người ta dịch là chứng kiện vong. Kiện vong, một chứng bệnh mà dịch ra tiếng Việt cái tên nghe cũng đẹp. Bây giờ không ai dùng chữ kiện vong nữa. Người ta bảo là mất trí nhớ, nghĩa là bao nhiêu sự kiện xảy ra trong đời đều bị xóa sạch, giống như những dòng chữ được ghi trong tập giấy bỗng dưng bị xóa trắng. Cái lạ là từ đó trở đi, tập giấy trắng này không còn ghi được bất cứ một dòng chữ nào nữa. Tôi, dù hay quên nhưng đầu óc  vẫn còn loáng thoáng nhớ lại những gì đã nói trong đêm July 4. Và tôi viết…

Có người bạn trẻ hỏi, sao các ông hay nhắc chuyện quá khứ, đáng lẽ phải hướng tới tương lai để cuộc đời còn vươn lên chứ? Đang trong cuộc nhậu, tôi khề khà giải thích theo kiểu một ông già hết thời rằng, tuổi bạn còn trẻ, phía trước bạn còn có một khoảng thời gian dài, bạn hướng tới tương lai và vươn lên để tạo kế lập thân, xây dựng sự nghiệp là đúng rồi. Chúng tôi đã lớn tuổi. (Tôi né cái tiếng “già” vì nhiều người không thích nghe ai xác định một thực trạng quá date của mình, kể cả tôi nữa. Nói như nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn: Ta như đứa trẻ ngàn năm tuổi. Người già là một đứa trẻ nhiều tuổi. Định nghĩa như thế, các cụ yên tâm mà tiếp tục sống hùng, sống mạnh nhưng không sống lâu). Bây giờ, người ta hay nói một cách cầu kỳ là “quỹ thời gian”. Cái “quỹ thời gian” của chúng tôi còn lại chẳng bao nhiêu. Nhìn về phía trước ư? Con đường trước mặt vừa ngắn, vừa xuống dốc. Và chúng tôi như chiếc xe đứt thắng đang lao dốc, càng lúc càng nhanh. Sức khỏe hao mòn, ngày tháng cạn kiệt. Mà đằng kia, cuối đường lại thấp thoáng cái hố huyệt bi thảm đen ngòm chờ đợi, hoặc một cái lò thiêu xác đang bừng bừng lửa cháy. Thôi rồi, tấm thân tứ đại bao nhiêu năm gây thù chuốc oán, hoặc tu nhơn tích đức trong phút chốc bỗng tan thành tro bụi. Như thế đó, nếu nhìn về tương lai, người yếu bóng vía dễ bị khủng hoảng tinh thần, hoặc nhẹ lắm cũng bị trầm cảm. Để yên tâm và tiếp tục vui vẻ yêu đời, chúng tôi nhìn ngược, nghĩa là ngoái nhìn về quá khứ. Nếu dĩ vãng không là một thời vàng son thì cũng đầy ắp bao nhiêu kỷ niệm vui buồn thân thiết. Đó là lý do, và cũng là câu trả lời cho người bạn trẻ hỏi tại sao các ông hay nhắc chuyện ngày xưa.
 
Sở dĩ tôi dài dòng về câu hỏi của người bạn trẻ là để chuẩn bị bước vào quê hương hoài niệm của chị Lộc Tưởng. Một quê hương “hồi đó” đã lùi sâu vào vùng ký ức. Chị nhìn ngược thời gian để sống lại với thời quá vãng. Dù bây giờ địa danh và chốn cũ vẫn còn, nhưng đã mất rồi những kỷ niệm ngày xưa thơ ấu. Đọc Vàm Kinh Cũ, tôi bỗng liên tưởng bài Ánh Mắt Quê Hương của Hoàng Phương:
 
Em tìm về chân đê
Chút hương thầm lá cỏ
Cánh diều bay chấm nhỏ
Chốn xa kia gọi về
 
Những người con của quê hương ngày ấy, lớn lên như bầy vịt trời xiêu tán, một hôm bỗng nghe tiếng vọng từ chốn xa kia gọi về Vàm Kinh Cũ. Và bao nhiêu kỷ niệm ùn ùn tái hiện. Từ xóm Chàm gần bến đò Châu Giang sáng chiều vẳng lại tiếng cầu kinh, dù không hiểu nghĩa nhưng cái âm thanh kỳ lạ ấy mỗi ngày một ít thẩm thấu vào tiềm thức, làm nên một kỷ niệm đặc thù mà chị không thể nào quên, cũng không thể nào tìm được bất cứ ở đâu. Dù bây giờ có tìm về thì cũng không còn cái âm thanh ngày xưa ấy. Nó chỉ còn trong tiềm thức và chị làm tái hiện lại khung trời biệt mù xa khuất ấy bằng những dòng chữ mà chị gọi là bút ký.
 
Bút ký của chị Lộc Tưởng là những chuyện đời thường, không chuyên chở những triết lý nặng nề, không làm dáng văn chương sáo rỗng. Chị viết một cách tự nhiên, từ chuyện nọ xọ chuyện kia, từ xưa tới nay, từ đông sang tây, từ quê hương sang qua xứ người. Người đọc cũng cảm thấy nhẹ nhàng, thỉnh thoảng mỉm cười với một vài tình tiết thú vị. Trước ngày đám cưới, bác “Hiêm”, một người Chàm lớn tuổi ở xóm, chận tôi lại hỏi “Thằng chồng con nó ở đâu?” , tôi trả lời ở Sài Gòn, bác nói với vẻ không vui “Con ơi! Ở đây thiếu gì thằng sao con không lấy, con lấy thằng Sài Gòn nó gạt con đi bán bar”, phải giải thích với bác ở Sài Gòn nhưng gốc Châu Đốc, chừng đó bác cười nói “Ừa! vậy thì được.” Cũng may cho ông Đoàn Đông, thằng Sài Gòn nhưng gốc Châu Đốc. Nếu gốc ở xứ nào khác thì đừng hòng rớ tới con gái của quê hương Bảy Núi.
 
Ông Hai Trầu có bài Lần theo dấu chân Lộc Tưởng. Lần theo, có nghĩa là từ từ bước theo dấu chân người trước. Nhưng tôi lại có cảm tưởng khác ông Hai Trầu. Khi đã vào chuyện của chị Lộc Tưởng thì không từ từ được nữa, mà phải chạy theo những tình tiết luôn luôn biến chuyển. Chẳng hạn, bước vô “Nghề nơi xứ lạ”. Đó là một tiệm Nail. Nghe các bà nói chuyện với nhau, linh tinh đủ chuyện tầm phào. Tác giả diễn tả đúng tính chất của những người ngồi lê đôi mách. Tôi đặc biệt chú ý nhân vật “bà Ba”. Bả nói chuyện tào lao nghe phát mệt. Ngoài sáu mươi mà còn nhỏng nha nhỏng nhảnh. Và đây, nhân vật “bà Ba” xuất hiện: thình lình tiếng kêu “leng keng” từ cánh cửa tiệm làm tôi giật mình nhìn lên. Một người đàn bà mặt dầy son phấn có khuôn mặt đúc từ lò của đệ nhất phu nhân Hạnh Phước đẩy cửa bước vào, hai tay chấp lại theo phim tàu miệng tía lia: Hé lô, hé lô bà con, năm mới phát tài … Khỏi cần giới thiệu dài dòng, người đọc cũng mường tượng ra một bà Ba mặt mày chỉnh sửa cứng đơ thô rám như tượng bằng sáp, và mồm miệng không để kéo da non. Để tả một nhân vật, đôi khi không cần phải rườm rà từ ngữ, chỉ cần phác hoạ vài nét đặc trưng là người đọc hình dung ra ngay. Tác giả cho biết, khuôn mặt “bà Ba” là tác phẩm được phát hành từ nhà xuất bản Hạnh Phước thẩm mỹ viện. Vậy là đủ. Nhà văn Nam Cao (hay Vũ Trọng Phụng, tôi không nhớ chắc) là một trong những tác giả tả chân hàng đầu của nền văn chương tiền chiến. Ông tả người đàn bà rằng “nàng có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp trai…” Trời ơi, đàn bà mà có cái nhan sắc của đàn ông thì đã khó coi rồi, đã vậy lại là của một người đàn ông xấu trai nữa. Nói theo ngôn ngữ bình dân, nhan sắc này thuộc loại ma chê quỷ hờn. Nói theo ngôn từ kiếm hiệp thì gọi là “Quỷ Kiến Sầu”. Quỷ thấy cũng buồn thì ai mà vui cho nổi? Thêm một trường hợp khác. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du cũng có một lối diễn tả độc đáo khi giới thiệu mụ Tú Bà: Thoắt trông nhờn nhợt màu da. Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao. Chỉ với hai câu lục bát, tác giả cho ta thấy hình ảnh sung mãn của người đàn bà làm chủ thanh lâu, chuyên kinh doanh bằng thân xác kỹ nữ. Nghĩa là người ta làm “má mì”, nuôi em út, sống giữa chốn làng chơi mà hỏi ăn gì cao lớn đẫy đà thì thật là… độc hơn thịt vịt xiêm. Ai bảo các cụ ngày xưa không thâm?
 
Trở lại với bút ký của chị Lộc Tưởng. Dù đã lìa xa mấy chục năm khung trời cũ, nhưng chị vẫn mang theo cả một thời thơ ấu, và những kỷ niệm từ những bước chân đầu đời. Giựt Giàn là một trong những hồi tưởng lao xao những khuôn mặt một thời tuổi nhỏ đông vui: trẻ con tụ năm tụ bảy ở mấy cây me tây. Đứa dưới gốc, đứa trên cành, mặt mày hồ hởi nói chuyện, cười giỡn, múa tay, múa chân, trèo lên, nhảy xuống như bầy khỉ con. Cách diễn tả thì náo nhiệt vui tươi. Sao đọc xong, hình như trong tôi còn đọng lại một chút ngậm ngùi. Một chút ngậm ngùi như câu thơ của Thế Lữ, ta sống mãi trong niềm thương nỗi nhớ. Thương nhớ những gì đã bỏ lại đằng sau. Quá khứ đã mịt mù theo ngày tháng lưu vong, và đời sống tất bật với mưu sinh xứ người đã nhận chìm một quê hương “hồi đó” vào vùng ký ức.
 
Chuyện ở miếu Tiên Sư có tính cách phong tục tập quán. Nhưng bước ra phía sau miếu là một bức tranh hoàn toàn khác. Phía sau miếu Tiên Sư là trường học chỉ có 3 lớp: lớp năm, lớp tư và lớp ba. Mỗi lớp không hơn 20 chục học sinh. Trai gái học chung, Việt Chàm lẫn lộn. Con gái Chàm học hết lớp ba là tới tuổi “cấm cung” ở nhà dệt vải, đan lưới, chỉ được ra khỏi nhà ban đêm, lúc nào cũng phải phủ khăn mỏng che mặt sợ gặp người lạ.  Còn con trai Chàm làm nghề đánh cá, bán chăn xà rông hoặc bán lưới.  Học sinh Việt Nam chỉ cần biết đọc biết viết. Nhất là con gái phải ở nhà giúp gia đình cơm nước, giữ em, trưa thì đội khoai lang, khoai mì hoặc mía khúc đi bán dạo. Do đó khi qua chợ học lớp nhì thì chỉ còn vài que.  Tác giả cho ta thấy một xã hội nghèo nàn với cuộc mưu sinh vất vả. Những đứa bé Chàm chưa kịp trưởng thành thì trên vai đã bị đè nặng bởi việc mưu sinh: dệt vải, đan lưới. Và con trai thì làm nghề đánh cá, bán chăn xà rông, hoặc bán lưới. Trẻ em Việt Nam cũng không khá hơn trẻ em Chàm. Đời sống cùn mằn nghèo khổ, làm người ta cam phận, không muốn nhìn cao hơn những bữa ăn đạm bạc hàng ngày. Cha mẹ quan niệm con em chỉ cần biết đọc, biết viết là đủ. Con gái phải ở nhà giúp gia đình cơm nước, giữ em, trưa thì đội khoai lang, khoai mì hoặc mía khúc đi bán dạo. Viết tới đây, tôi nhớ lại một câu nói “để đời” của ngoại tôi: “Con gái học nhiều chỉ để viết thư tình cho trai, chứ ích lợi gì!” Hết đời ngoại, đến đời má tôi cũng chẳng khá hơn. Má nói, sở dĩ cho tôi đi học là để cầm chân tôi trong lớp, khỏi chạy nhảy đi phá làng phá xóm. Lạy trời, nhờ má cầm chân mà hôm nay tôi có được chút chữ nghĩa để viết bài này.
 
Trở về với bút ký của chị Lộc Tưởng. Với lối văn bình dị như người kể chuyện, chuyện cũ chuyện mới đan lẫn vào nhau như một bức tranh nhiều màu sắc.
 
Chuyện mới, là một cái nhìn rất bình thường của những người Việt xa xứ về một quê hương thứ hai. Mùa thu vùng Đông Bắc, Xúm nhau mua gạo, Bầu cử tổng thống Mỹ, Nghề nơi xứ lạ …, (và những chuyện khác) là những chuyện mà tôi muốn nói đến. Trong một bài viết ngắn, tôi không muốn cầm cờ chạy trước tác giả, và chiếm nhiều trang của chị. Xin dành những chuyện mới cho người đọc, và những nụ cười nhẹ nhàng ý nhị mà tác giả trang trải qua từng trang bút ký.
 
Chuyện cũ thì đã chìm sâu vào quá khứ, bây giờ chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm dù vui hay buồn, nhưng khi nhắc lại cũng làm ta ngậm ngùi thương nhớ.
 
Còn tìm đâu tìm đâu mái nhà
Còn tìm đâu ngôi trường cũ mến yêu
Còn tìm đâu mây buông tóc xõa
Tìm đâu em thơ nho nhỏ
Tìm đâu tuyết sương mẹ già.
 
Tôi mượn lời bài nhạc Cuốn Theo Chiều Gió để kết thúc bài viết này, và cũng để nói lên tâm trạng của tôi khi đọc những bài hoài niệm về quê hương xưa của chị Lộc Tưởng.
 
Lâm Chương
Boston, ngày 20 tháng 09 năm 2016

 

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com