Huấn Địch Thập Điều (đầy đủ là Thánh Dụ Huấn Địch Thập Điều) là một văn bản do vua Minh Mạng (1820-1840) ban bố vào năm 1834, về sau được vua Tự Đức (1847-1883) diễn ca bằng thơ Nôm với tên gọi Thánh Huấn Thập Điều Diễn Nghĩa Ca. Cả hai tài liệu này đã được GS Lê Hữu Mục biên dịch và Phủ QVK đặc trách Văn hóa Sài Gòn xuất bản năm 1971. Theo người biên dịch, đây có thể coi là bản hiến chương về văn hóa giáo dục thứ ba của nước ta, sau bản Nhị Thập Tứ Huấn Điều của vua Lê Thánh Tông ban bố năm 1470 và Lê triều giáo huấn điều lệ Tứ Thập Thất Điều của vua Lê Huyền Tôn ban năm 1663.
Dưới triều Nguyễn, việc khuyến khích nhân dân làm việc thiện đã được chú trọng thực hiện từ những năm đầu đời Gia Long (1802 - 1820), nối tiếp đến đời Minh Mạng được liên tục bổ sung, hoàn thiện và ban bố cụ thể hơn. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), vua xuống dụ: "Tôi trung, con hiếu, gái tiết, trai nghĩa, người dân trong nước phải nên khuyến khích. Từ xưa, nêu cao người hiếu, biểu dương người liêm, là để rèn luyện tục dân, sáng tỏ giáo hóa. Trẫm kính nối cơ đồ vinh quang, mở rộng đường lối chính trị. Phàm có trung thần phong cho thờ cúng, liệt nữ, thưởng biển nêu khen, có đủ cả điển lệ. Nhưng hiếu tử (người con có hiếu), nghĩa phu vẫn chưa được biểu dương, như thế là đường lối dạy dân thành tục tốt, còn lo chưa được đầy đủ. Chuẩn từ nay các thành, doanh, trấn đều nên để tâm tìm tòi. Phàm dân gian có hiếu tử đối với cha mẹ, thực hành rõ rệt, như loại sớm tối hầu thăm, trước biết ý mà thuận theo, việc sống nuôi, chết chôn đều phải hết đạo, trong làng xóm đều khen là hiếu tử, nghĩa phu, thấy tài lợi, lòng không chuyển động, như loại được vàng trả chủ, không hám lợi một cách cẩu thả, khi từ hay nhận, lấy hay cho, đều hợp với nghĩa, mà già trẻ đều tin là người liêm. Cho phép hương lý kê rõ họ, tên, tuổi và quê quán, cam kết nhận thực. Quan trấn hạt ấy trình bày thực trạng cùng lời xét khai làm tờ tâu, do bộ Lễ tâu lên đợi chuẩn nêu thưởng để xứng với ý tốt của trẫm dạy bảo uốn nắn phong tục." (1)
Vì thế mục đích của nhà vua khi soạn Huấn địch thập điều chính là để giáo hóa đạo đức, sửa chính phong tục.Trước khi ban bố Huấn Địch, nhà vua đã dụ bộ Lễ:
"Nước nhà vững bền có quan hệ với nhân tâm, phong tục tốt chính vì giáo hóa. Gần đây, bọn vô lại, hoặc dẫn dắt nhau vào tà giáo, hoặc dụ nhau vào rượu chè cờ bạc. Nhiều tiểu dân ngu xuẩn bị cám dỗ, vì thế trộm cướp giặc giã không thể dứt hẳn được. Mỗi lần nghĩ đến việc dân ta chưa giàu, chưa thể nói đến giáo hóa. Song dân đã trải qua nhiều loạn lạc, lòng người có đôi chút hối ngộ. Nhân việc ấy mà dạy dỗ, dễ dàng đắc lực, Bộ ngươi nên phỏng theo đại ý bản "Thánh dụ quảng huấn" nước Thanh, đặt những điều huấn cho rõ ràng, Chỉ cần lời văn và ý tứ trang nhã, không cần phải trau chuốt. Khiến bọn ngu phu, ngu phụ, không có người nào chẳng hiểu biết, làm cho phong tục, từ chỗ khinh bạc trở nên thuần hậu. Đó là kế sách lâu dài của nước nhà vậy..." (2)
Từ đó ta thấy nhà vua quan niệm giáo dục là thi hành những điều nhân nghĩa. Trong lời mở đầu của bản Huấn địch, nhà vua ghi rõ:
"Trẫm nối tiếp hồng đồ, noi theo phép lớn, vẫn suy tư về ý nghĩa của câu "làm cho dân giàu rồi sau mới giáo hóa", nên đã từ lâu vỗ về kẻ suy bại, an ủi người bệnh tật, ra ơn tha thuế, lúc nào cũng canh cánh một niềm yêu mến giúp đỡ người dân.
"Tuy chưa có thể làm cho tất cả dân ta trở thành giàu có, con cháu đông đúc, nhưng mà nuôi dưỡng an vui thong thả, trải đến nay đã mười lăm năm, giáo huấn để cho tập tục chính đáng, thật chỉ có đời này mà thôi."
"Nghĩ sâu về đạo thường của dân chúng, về quy tắc của sự vật đủ để biết về điều ấy, nhà tranh nơi héo lánh tất cũng có người trung tín, kẻ thành phác thuần hậu không thiếu, tuy vậy, cũng có khi khí bẩm bị che, vật dục bị mờ, cho nên không thể không giáo dục" (3)
Về nội dung, Huấn địch thập điều gồm 10 thiên được trình bày theo thứ tự như sau:
1- Đôn nhân luân 敦人倫: đề cao đạo đức nhân luân.
2- Vụ bản nghiệp 務本業: chuyên cần nghề nghiệp.
3- Thượng tiết kiệm 尚節儉: chuộng tiết kiệm
4- Hậu phong tục 厚風俗: phong tục phải đầy đặn, không điêu bạc.
5- Huấn tử đệ 訓子弟: phải dạy bảo con em.
6- Sùng chính học 崇正學 : Coi trọng chính học.
7- Giới dâm thắc 戒淫慝: không được gian dâm dối trá.
8- 9- Thận pháp thủ 慎法守: thận trọng pháp luật.
10- Quảng thiện hạnh 廣善行: rộng sự làm lành.
Trong khuôn khổ giới hạn của bài viết chúng tôi xin được ghi lại hai thiên quan trọng là Vụ bản nghiệp (chuyên cần nghề nghiệp) và Quản thiện hạnh (rộng sự làm lành)
Chuyên cần nghề nghiệp
1- Trời cao sinh ra dân, tất giao phó cho mỗi người một nghề, cho nên mỗi người phải tự chọn lấy một nghề để làm căn bản lập thân. Kẻ sĩ, nhà nông, người làm thợ, kẻ đi buôn, người làm vườn, kẻ trồng rau, bác chài đánh cá, đứa trẻ chăn trâu, thậm chí cả tay võ biền trong quân lữ, mỗi người đều phải có nghề nghiệp, đều nhờ vào đấy mà sinh sống.
2- Nghiệp thành công là nhờ ở chuyên cần, mà bị phế bỏ là vì lười biếng, chỉ nên tinh chuyên làm việc, không lười dùng sức thì nếu lo toan một ngày không đủ, lo toan một tháng sẽ dư thừa, cuối cùng tất thấy thành hiệu.
3- Làm học trò, tắm rửa thân xác, trau giồi tính hạnh, học rộng, nghe khắp; quyết đi đến một thế đứng vững vàng; nếu có lợi nhỏ trước mắt, cũng không thể vội vã thay đổi chí hướng.
4- Làm nhà nông, hãy tu sửa cày bừa, chuyên cần về cấy gặt, cốt để cho trọn ngày no đủ, nếu có chuyện được mùa không đều, cũng không vì thế mà bỏ nghề.
5- Cho đến thợ thuyền, phải chỉnh sức các xuất phẩm cho ăn hợp với vật liệu; nhà buôn phải để cho của cải lưu thông; quân ngũ giảng tập võ thuật, đều có nghề nghiệp bình thường để nuôi thân, không bao giờ không tập mà yên, vậy chuyên cần mà làm việc, đấy là ý nghĩa của sự chuyên cần. Kinh thư chép: "Chỉ có sự chuyên cần mới phát triển được nghề nghiệp}. Các ngươi nên gắng sức đi.
Quảng thiện hạnh (Rộng sự làm lành)
1- Nhà nào tích thiện tất có thừa phúc, vì thiện là phúc tập trung lại, cái gọi là thiện không có gì khác, chẳng qua là hiếu đễ, trung tín, nhân nghĩa, lễ trí mà thôi. Nay Trẫm bảo với các ngươi, không nói đến việc phải biết các điều kể trên, chỉ nói đến cái đạo di luân thường dùng hằng ngày thì đại lược không ngoài những điều ấy.
2- Sĩ thứ quân nhân, các ngươi nên kính cẩn nghe theo lời trẫm, gắng sức tiến đến cõi thiện, hôm nay làm một việc thiện, ngày mai làm một việc thiện, lâu ngày thì thực hiện được ở mình, tính thiện mới có thể quảng bá âm đức, tự nhiên tai ương không xảy ra, phúc lộc tìm đến hàng ngày; nếu báo ứng hơi chậm, thân mình chưa được vinh hiển, thì tử tôn tất cũng được nương nhờ ơn phúc thừa dư sẵn có mà phát triển thịnh đại đến vô cùng.
3- Kinh thư chép: "Làm lành, trăm điều tốt được ban xuống". Tất cả các ngươi nên thể theo ý Trẫm, đôn đốc thi hành đường thiện không trễ nải, cho đến khi tính mệnh của mỗi người được chính đính, bảo vệ được nền thái hòa, cùng nhau đạt tới đường nhân cõi thọ, vẻ vang lắm thay!...(Trích Huấn địch thập điều)
Nhiều nhà giáo dục cho rằng đây là văn bản đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Nó kết tinh những kinh nghiệm giáo dục của các triều đại trước để vạch ra các kế hoạch giáo dục liên quan đến các tầng lớp trong xã hội; từ trí thức đến nông dân, từ thương nhân đến binh lính. Nói đến giáo dục trong thời phong kiến, không thể không nhắc đến hệ thống thi cử để tuyển dụng người tài, chính vua Minh Mạng cũng đã nhiều lần than phiền về những lầm lẫn trong quan niệm thi cử, sự vô lý trong cách chấm đổ của các quan trường, từ đó ông đã nêu ra quan điểm đào tạo con người một cách thực tiển hơn qua 10 điều dụ của mình. Nhờ đó phần nào giảm đi cái lối học cử nghiệp, sáo ngữ mà chính nhà vua đã nhiều lần phê bình và có khi cấm đoán sử dụng. Có thể nói Minh Mạng là nhà lãnh đạo nhận chân được giá trị đích thực của nhân tài. Là người thông minh, thực tế và ưa hoạt động, nhà vua đã thấy rõ những khuyết điểm trầm trọng của lối học cử nghiệp đương thời, mà kết quả chỉ là tạo ra một số khoa bảng có bằng cao nhưng chẳng làm được gì có ích. Nhà vua thường nói: "Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo, khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng một ngày một kém đi..." (Huấn địch,... sđd, tr. 52). Do đó nhà vua đã đơn giản các thủ tục thi cử, bỏ môn chiếu chỉ là môn nặng cử nghiệp. Dưới triều đại ông, ta thấy có Phan Huy Chú (1782-1840) dù mới đỗ Tú tài cũng được cử bổ làm Biên tu Quốc tử Quán vào năm 1821; hay như Phạm Đình Hổ (1768-1839) chuyên nghiên cứu về cổ sử, cổ ngữ và là tác giả của 16 tác phẩm lớn, dù không có bằng cấp cũng được nhà vua cử bổ chức Tế tửu (Hiệu trưởng) Quốc Tử Giám (1826).
Có thể nói rằng do ảnh hưởng của chủ trương giáo dục từ Huấn địch, nhiều thế hệ sĩ phu đã dùng sở học để cống hiến trong nhiều lĩnh vực thiết thực, chú trọng hơn đến thực nghiệp, Một vài dẫn chứng như về canh nông và doanh điền thì có Nguyễn Công Trứ (1778-1859) sung chức Dinh điền sứ, trông coi việc khai khẩn đất hoang ở các miền duyên hải, hay Đỗ Phát đổ Tiến sĩ năm 1843 được cử làm Tế tửu Quốc Tử Giám vừa kiêm nhiệm Dinh điền sứ. Đặc biệt có Nguyễn Trinh Hoàng đổ Cử nhân năm 1848 rồi không học nữa, về quê làm ruộng, khai khẩn đất hoang và cải cách phong tục ở làng xã. Nội dung của bản Huấn địch cũng góp phần vào phong trào trọng nông và trọng thương thời bấy giờ. Có thể kể thêm vài ví dụ tiêu biểu như Đổ Xuân Cát, đổ cử nhân năm 1841, không ra làm quan dâng bản điều trần về vấn đề thủy lợi có tựa là Hà phòng ngũ thuyết được vua Tự Đức công nhận có nhiều giá trị thực tiển, và triều đình đã căn cứ vào đó để cải thiện hệ thống đê điều ở miền Bắc. Lĩnh vực thương mại cũng được chú ý hơn; Đặng Huy Trứ (1825-1874) dâng sớ về những điều ích quốc lợi dân và được vua Tự Đức cử giữ chức Bình chuẩn sứ, phụ trách về giao thông thương mại và xuất khẩu hàng hóa. Quyển Sách học vấn tân của ông đề xuất giáo dục về hướng nghiệp, trong đó có thương mại. Anh họ của ông là Đặng Huy Tá đổ cử nhân năm 1841, sau nhiều năm suy nghĩ cuối cùng mới nhận thấy nghề chính của mình là nghề làm Thương biện. Về y học có Chu Doãn Chi (quê huyện Đông Ngàn, Bắc Ninh) và Nguyễn Tĩnh (tổng đốc Thanh Hóa) chuyên tâm nghiên cứu. Chu Doãn Chi nổi tiếng là một nhà bác học đương thời nhưng không chú ý tới lối học cử nghiệp, ông dành thời gian để học Nội kinh và chữa bệnh cho mọi người...
Qua bản Huấn địch của vua Minh Mạng, ta thấy được những nhận định và quan niệm về học hành, thi cử của nhà vua: bắt đầu chỉ trích và không chú trọng tới lối văn cử nghiệp, lối trần từ sáo ngữ..); về cách sử dụng nhân tài (không chỉ bổ dụng những người có khoa bảng vào các chức vụ cao cấp kể cả ở Quốc Tử Giám, đặt ra học vị phó bảng...); trọng việc học nghề (không ai có quyền thất nghiệp vì "Trời cao sinh ra dân, tất giao phó cho mỗi người một nghề, cho nên mỗi người phải tự chọn lấy một nghề làm căn bản lập thân. Kẻ sĩ, nhà nông, người làm thợ, kẻ đi buôn, người làm vườn, kẻ trồng rau, bác chài đánh cá, đứa trẻ chăn trâu, thậm chí cả tay võ biền trong quân lữ, mỗi người đều phải có một nghề nghiệp, đều phải nhờ đó mà sinh sống")...
Quan trọng hơn, ngoài xã hội ảnh hưởng của tác phẩm đã hình thành nên nhiều thế hệ gia đình người Việt biết dạy con cái sống cần kiệm, "Ăn bữa mai, nghĩ bữa chiều/ Làm người phải biết liệu điều trước sau"; ứng xử bằng ân đức để trong họ ngoài làng tốt đẹp, nhường nhịn để trên dưới vui hòa, không cậy giàu, khinh nghèo bởi "Chẳng ai giàu ba họ/ Không ai khó ba đời", hãy "Thương người như thể thương thân"... Đạo làm cha mẹ phải biết dạy con những điều lễ nghĩa, liêm sỉ, giữ thiên lương, trước là làm người dân lương thiện, sau phải cố gắng hết sức mình để tạo dựng sự nghiệp làm vinh hiển gia đình, tổ tông... Hiếu thuận không chỉ với người còn sống mà còn đối với những người đã khuất.
Chính nếp nhà như thế đã góp phần đáng kể trong việc hình thành nếp sống của người Việt và nhân cách của mỗi con người. Đời sống văn hóa ở mỗi gia đình, gia tộc, xóm làng đã giúp mọi người vượt qua những cam go thử thách, những khó khăn trong cuộc sống để tự mình vươn lên.
Tôn Thất Thọ
Tài Liệu Tham Khảo:
- Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ T4, Nxb Thuận Hoá, 2005, tr.465.
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu T2, Nxb Thuận Hóa, 1994, tr. 242.
- Thánh dụ huấn địch thập điều diễn nghĩa ca, Lê Hữu Mục dịch, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa Sài Gòn, 1971, tr. 35