
Nhà văn Nguyễn Vy Khanh (trái) và Hai Trầu trong dịp ra mắt sách của nhà văn Lâm Chương cách nay hơn 25 năm tại Boston.
Lương Thư Trung (ký Hai Trầu, 1942 -) định cư ở Hoa Kỳ từ 1992. Sau các bút ký Bến Bờ Còn Lại (“tạp văn”; Boston: Thư Trung, 2000), Tình Thầy Trò (2005), Lá Thư Từ Kinh Xáng (2005; Trẻ, 2012), hồi ký Nhớ Về Những Bến Sông (2012), Một Chút Tình Quê (Houston: TGXB, 2015) và tạp ghi Mùa Màng Ngày Cũ (Thư Ấn Quán, 2011; TG tái bản, 2015; Trẻ tb, 2024), Một Chút Tình Quê (ký Hai Trầu Lương Thư Trung; Houston: TGXB, 2015), và gần đây là Nhớ Về Những Ngày Tháng Cũ, Người Viết và Người Đọc nhiều tập đều do NXB Trẻ (2023).
Thơ văn Việt Nam càng ngày càng ít có tác phẩm viết về đời sống nông thôn vốn dĩ là môi trường sống của 80 – 90% dân số. Có thể người viết – cũng như người Việt nói chung, ngày càng thị tứ hóa theo đà hiện đại, nên đã xa dần nông thôn. Thứ nữa, càng có những cuộc “cách mạng văn học”, các tác phẩm mới lại càng xa nông thôn vì cái gì mới thường do ảnh hưởng Âu Mỹ. Dù vậy, ở mỗi giai đoạn văn học đều có những tác phẩm dùng thôn quê làm khung cảnh hay nền cho thơ văn… Thơ văn người Việt hải ngoại nói nhiều đến quê nhà nhưng dù vậy vẫn hiếm người viết thật sự về nông thôn. Một số các nhà văn miền Nam có viết về “miệt vườn” nhưng nhiều hơn về tình yêu ở nông thôn, và họ hay có cái nhìn của người ghé chơi hơn là ở hẳn đó hoặc của người nay đã lên tỉnh thành. Nhưng nói gì nhà văn, người “nhà quê” cũng đô thị hóa tại chỗ, nào truyền hình, radio, áo quần, ngay cả trong tiếng nói và âm nhạc. Thành ra tìm cho ra người nhà quê nói ca dao, tục ngữ, nói thai đố, nói thơ Vân Tiên, mặc áo vải thô có thể ngày càng khó.
Thơ văn Việt Nam càng ngày càng ít có tác phẩm viết về đời sống nông thôn vốn dĩ là môi trường sống của 80 – 90% dân số. Có thể người viết – cũng như người Việt nói chung, ngày càng thị tứ hóa theo đà hiện đại, nên đã xa dần nông thôn. Thứ nữa, càng có những cuộc “cách mạng văn học”, các tác phẩm mới lại càng xa nông thôn vì cái gì mới thường do ảnh hưởng Âu Mỹ. Dù vậy, ở mỗi giai đoạn văn học đều có những tác phẩm dùng thôn quê làm khung cảnh hay nền cho thơ văn… Thơ văn người Việt hải ngoại nói nhiều đến quê nhà nhưng dù vậy vẫn hiếm người viết thật sự về nông thôn. Một số các nhà văn miền Nam có viết về “miệt vườn” nhưng nhiều hơn về tình yêu ở nông thôn, và họ hay có cái nhìn của người ghé chơi hơn là ở hẳn đó hoặc của người nay đã lên tỉnh thành. Nhưng nói gì nhà văn, người “nhà quê” cũng đô thị hóa tại chỗ, nào truyền hình, radio, áo quần, ngay cả trong tiếng nói và âm nhạc. Thành ra tìm cho ra người nhà quê nói ca dao, tục ngữ, nói thai đố, nói thơ Vân Tiên, mặc áo vải thô có thể ngày càng khó.
Một số bài viết của Lương Thư Trung đã đến với người đọc trước hết qua phương tiện điện toán liên mạng internet, chính yếu trên diễn đàn Văn Học Nghệ Thuật, sau xuất hiện trên các tạp chí văn học và báo chí cộng đồng. Những bài bút ký – ông thường gọi là “tạp văn”, khi ông viết về cảnh cũ người xưa, những tùy bút và tâm bút khi ông tâm tình cùng những người bạn đọc trẻ tuổi. Đề tài là con người và cuộc sống thôn dã và khó khăn ở “miệt vườn” mà ông biết rành rõ. Ông có một trí nhớ đặc biệt xuyên lùi cả đời người. Cây viết ông chưa thật sự bị đô thị hóa và đời sống hội nhập ảnh hưởng. Nhờ đó mà các bài ông viết vừa có giá trị tài liệu vừa để lại nơi người đọc những thú vị văn chương. Ông vẫn xưng là người “nông dân” – ông còn cho biết thêm là đã lên lên thành phố dạy học, làm công chức và đi lính mà sau 1975, ông phải “về quê làm ruộng”! Nông dân mà viết về đời sống “miệt vườn” rất văn chương như ông thì khá hiếm. Một món quà cho những người phải sống xa quê hương!
Ông viết về những kỷ niệm một quãng đời ở quê nhà miền Nam lục tỉnh sông nước, rừng núi và cả những chốn thành thị, ghi lại sinh hoạt đời thường của nông dân miền Nam tùy theo các mùa, như mùa xoài, mùa bông súng bông sen, mùa giăng lưới, đặt lờ, cày bừa, phát cỏ, làm lóng tát mương, sạ lúa, xúc lùm, nhảy hùm, quậy đìa, làm mắm, làm khô, v.v… – “một bức tranh quê tàm tạm đủ về các công việc ở nhà quê hầu mang đến các bạn chút tình quê còn sót lại sau sáu bảy chục năm qua mà nay thì trời đất và mùa màng cũng đã thay đổi rất nhiều rồi, không giống như ngày trước nữa, hầu chia sẻ cùng các bạn”.
Ông khiêm tốn cho biết ông “… không phải là nhà văn, và cũng không biết viết văn, mà tôi chỉ là một người nhà quê già có một thời dầm mưa dãi nắng trên những cánh đồng, nên biết được chút gì thì nay ngồi ghi chép lại chút nấy hầu mang lại cho các bạn chút hương sắc nơi chốn quê mùa với hy vọng mang lại cho bạn chút êm ả nơi tâm hồn…”.
Đến năm 2023, trong Lời Nói Đầu cuốn Nhớ Về Những Ngày Tháng Cũ, ông tâm sự: “Ngày nay, ít ai còn muốn in sách, nhứt là khi tuổi đời bước vào tuổi già khú đế hoặc từ 80 đổ lên thì ý tưởng in sách có lẽ là một trong những chuyện hơi có chút phiêu lưu, buồn cười vì sách in ra chẳng biết để làm gì? Chính tôi là người đọc nhà quê già nhiều lúc cũng tự hỏi mình và nghĩ như vậy! Nhưng rồi, tôi lại phải đi gom góp các trang ghi chép về đời sống nơi miền quê cùng vài hồi ức về những ngày xa xưa cũ hầu in ra quyển sách này với mục đích duy nhứt là để làm kỷ niệm trong gia đình thôi, không dám tặng ai, ngoại trừ các bằng hữu rất thân thiết và thông cảm được nỗi lòng lưu luyến cái cũ, cái xưa của một người nhà quê già thứ thiệt như mình! Dà, tôi biết là trong quyển sách này cũng như các sách trước chắc chắn ở đó còn rất nhiều sơ sót nhưng nay ở tuổi của tôi, tôi không dám mơ sách của mình sẽ được cầu toàn; vì trước nhứt tôi không phải là người viết văn nên không làm sao tránh khỏi những sai sót trong lỗi làm văn; thứ nữa vì vốn là một người làm ruộng già, nên tôi chỉ mong những gì mình ghi lại nơi đây, trước nhứt là để mình có dịp sống lại những ngày tháng cũ của mình mấy chục năm về trước thôi, chứ không dám mơ văn hay chữ tốt gì nơi tập sách quê mùa này!…” (tr. 5).
Lá Thư Từ Kinh Xáng (Trẻ, 2012) gồm 80 bài viết về nhiều khía cạnh của đời sống ngày trước nơi thôn dã, ruộng vườn miền Nam.
Tác giả đã “Mời bạn vào mùa” tức Mùa Màng Ngày Cũ: “Nói đến nhà quê là nói đến mùa màng. Mùa màng nhà quê theo vận hành của gió mùa, của thời tiết trong năm mà thuận hiệp với thiên nhiên, trời đất. Tháng nào thì mùa nấy như câu ca dao: “Tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà…”
Ngày xa xưa ấy, những năm tháng còn làm lúa mùa, mỗi năm chỉ có một mùa lúa duy nhất, nên nhà quê miệt Long Xuyên Châu Đốc mùa màng mang theo nó cái đặc tính của vùng lúa mùa. Cùng với sự tiến bộ về mọi mặt ngày nay của khoa học nông nghiệp, mùa màng ngày xưa bị xáo trộn nhiều, có nhiều mùa bây giờ hoàn toàn khác biệt so với ngày trước. Do vậy, loạt bài viết về các mùa màng này tựa như những chuyện xưa được kể lại hầu mang đến cho các bạn trẻ một chút hương ngày cũ. Như một kỷ niệm lâu rồi, rồi chợt nhớ lại mà bồi hồi. Ở đây không mang tính văn chương biên khảo, mà là những chất liệu góp nhặt từ công việc nông nghiệp của những ngày mùa mà người viết đã sống qua nơi chốn thôn quê của mình …” (bản 2011, tr. 9)
Ông viết về người nông dân trong Mùa Cấy Lúa: “… Người làm ruộng lúc nào họ cũng thân thiết với cánh đồng lúa của mình, với đôi trâu, đôi bò làm bạn ngoài đồng, với một tâm hồn tràn ngập niềm vui khi nghe gió thổi rì rào tràn qua những biển lúa xanh rì lúc lúa đang vào thời con gái, hoặc gió đưa hương thơm ngào ngạt lúc mùa lúa chín vàng cánh đồng mà nghe mùa cắt gặt sắp trở về. Trong cái cực, có cái sướng, trong cái lo có niềm vui ló dạng, trong cái nghèo có cái chất thanh đạm trong lành, và trong cái chân quê có cái chất thanh khiết của ruộng đồng, một thứ của quý mà dù trải qua bao cuộc bể dâu của thời cuộc, bao bận thăng trầm của dòng đời, nhưng các nét rất riêng đó của những người làm ruộng vẫn bên bỉ biết dường nào. Vì vậy, người làm ruộng giỏi không bao giờ bỏ ruộng mà luôn luôn biết tiếc từng tấc đất…” (tr. 80).
Lời Nói Đầu Một Chút Tình Quê: “Thưa bạn,
Vốn dĩ tôi chỉ là một người nhà quê nay tuổi đã già, tóc đã bạc nhiều với biết bao gian truân qua sáu bảy chục năm dời đổi trong dòng đời nhưng sao tôi vẫn muốn kể cho bạn nghe về những năm tháng cũ nơi miền quê mà tôi đã từng có những ngày uống nước cỏ, nước phèn với các cánh đồng lúa mùa ngày nào ấy mãi hoài!
Rồi nào là tôi muốn kể cho bạn nghe về cách người xưa lập vườn trồng cây ăn trái vì ngày nay cách trồng cây ăn trái đã khác xưa rất nhiều; cũng như tôi muốn kể cho bạn nghe mùa nước lên hồi xa xưa ấy mà ngày nay mùa nước lên không còn như ngày nào nữa, để thấy lòng tham của con người ngày nay muốn tận dụng hết chất đất nên đã tìm mọi cách ngăn sông đắp bờ đắp đập quanh năm mà không chịu nuôi dưỡng đất như người xưa có những mùa cho đất nghỉ ngơi tắm mát hầu ruộng đồng thêm màu mỡ, hồi phục.
Tôi cũng muốn kể thêm cho bạn nghe qua những mùa màng không lấy gì làm quan trọng như mùa cua ốc, mùa cuốc khoai và trồng kiệu, mùa trồng khóm, mùa ngồi tum và vớt tràm lụt, mùa làm gạch ngói, mùa dựa rơm và đốt đồng v.v…, nhưng các mùa màng ấy phần nào mang bạn trở về nhìn ngắm lại nếp sống của dân cư nơi các làng quê thuở thanh bình một thời…
Ngoài ra, tôi cũng muốn kể cho bạn nghe qua vài ngôi chợ cũ, vài bến đò cũ và vài con kinh, con rạch mà có lẽ một đôi lần bạn đã đi qua những kinh rạch ấy, nhưng vì không để ý và có thể bạn không còn nhớ những nơi chốn một thời mình đã để lại vài dấu chân…
Giống như các trang sách về nhà quê của tôi từ trước đến nay, tôi không có ý làm văn chương hay viết truyện bằng cách hư cấu, tưởng tượng bởi lẽ tôi không có đủ khả năng làm những công việc cao siêu ấy; tôi cũng không viết như một thiên biên khảo hay loại địa dư chí mà ở đây chỉ thuần là những hồi ức về một vùng đất, một hoàn cảnh hay một đoạn đời với những nỗi niềm mà tôi đã từng lăn lóc qua những mùa màng nơi các ruộng đồng hồi trước cũng như mấy mươi năm sau này như một chút tình quê để chia sẻ cùng các bạn... 15-12-2014”.
Nhớ Về Những Ngày Tháng Cũ: Trong bài Chợt Nhớ Về Sài Gòn, ông ghi lại nỗi nhớ thời quá vãng: “Dường như mỗi khi có ai đó nhắc về một vùng đất, một làng quê, hoặc một thành phố nào đó để nhớ là nỗi nhớ ấy được tích lũy lại từ những kỷ niệm, những ký ức mà người ấy có lần được ghé qua rồi có khi phải sống lại nơi chốn ấy năm ba ngày, năm ba tháng hoặc lâu hơn chút nữa là năm ba năm, hay lâu hơn nữa; nhưng chắc chắn một điều là nỗi nhớ ấy phải chín muồi, phải khắng khít, phải tha thiết để rồi người ta mới có dịp ngồi xuống tâm sự cùng bạn về nỗi nhớ của họ về những ngày xa xưa ấy mà họ đã ở đó một thời! Riêng tôi, tôi cũng vậy! Như bạn biết tôi vốn là một đứa học trò làng, vốn tôi được song thân tôi sanh tôi ra ở làng quê heo hút và lớn lên ở vùng quê, nên từ thuở nhỏ tôi không biết một chút gì về Sài Gòn. Rồi đến khi các lớp cấp Sơ Đẳng Tiểu Học, rồi cấp Tiểu Học bổ túc ở dưới quê mà tôi theo học đã hết lớp thì Tía Má tôi rán nhín nhút cho con lên tỉnh đi học tiếp thì tôi lui cui lên tỉnh học. Lúc đầu học các lớp Đệ Nhứt Cấp, rồi lần hồi bò lên các lớp Đệ Nhị Cấp, rồi thi Tú Tài 1, Tú Tài 2, rồi học nghề, rồi cưới vợ ở Sài Gòn, rồi có lúc làm cu li ở Sài Gòn nhưng bản tính nhà quê của tôi không hạp với nếp sống nhanh nhẹn, ồn ào của Sài Gòn thế nhưng ngày nay, khi tuổi già lần hồi bò lên hai vai gầy dường như cũng hơi khá nặng, nên nhiều lúc ngồi nghĩ lại những ngày còn nhỏ, chợt dưng tôi lại nhớ về Sài Gòn! (…)
Thưa bạn, Lời kết mà tôi muốn ghi lại nơi đây là tôi dù rất mê đời sống nơi làng quê, mê những ngày ngủ nóp trên đồng vào mùa gặt lúa, mê những đêm trăng nằm trên chiếc xuồng câu giữa mùa nước lên tháng Chín, tháng Mười chờ tới giác thăm lưới thăm câu cá dính nặng xuồng, nhưng có lúc tôi vẫn nhớ về Sài Gòn, nhớ tha thiết như nhớ về một thời tuổi trẻ của mình với một tấm lòng biết ơn những con đường quen tên nơi chốn ấy, biết ơn đời, biết ơn các bậc ân nhân và nói như tựa sách mới của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc vừa mới phát hành là tôi cũng nói lời “Biết ơn mình” nữa! Phải vậy hông, thưa bạn? Houston, ngày 21 tháng 11 năm 2019. hai trầu” (tr. 9, 19).
Cuối cùng, xin ghi lại bài ông viết Tôi Đi Tìm Tui:
“Nói về mình, tôi thiết nghĩ lúc nào cũng rất khó nói, từ xa xưa đã có câu “le moi est haissable” (chuyện của thằng mình là đáng ghét), nếu không khéo dễ bị cho là khoe khoang, làm trò cười và gây khó chịu cho người đọc; nhưng thưa bạn, trong tập sách này mục đích duy nhưt của nó là để dành kỷ niệm trong gia đình, nên tôi xin có vài lời về mình như một chút tâm tình vậy thôi, không có ý gì khác! Tôi thuở nhỏ, nhà dù nghèo nhưng Tía Má tôi dù làm lụng rất cực nhọc nhưng lúc nào song thân của tôi luôn muốn cho anh em chúng tôi được ăn học đàng hoàng! Anh tôi, em út của tôi thì rất thông minh, riêng tôi, tôi biết mình siêng năng thì có siêng năng nhưng hổng được thông minh cho lắm nên hồi đó tôi thường thi đâu rớt đó, ít khi nào tôi đậu liền ngay keo đầu! Những lúc như vậy Tía Má tôi hay khuyên con mình: “Con đừng buồn, rớt khóa này rán ôn bài lo thi khóa tới!” Dĩ nhiên rồi, thi rớt hoài ai mà hổng buồn, tôi thì buồn ít nhưng chắc song thân tôi thì buồn nhiều lắm nhưng vì thương con nên Tía Má tôi khuyên con mình vậy thôi! Chứ tôi biết Tía Má tôi chắc buồn dữ lắm! Nhưng bù lại là hồi đó cứ mỗi lần gần tới tuổi kêu nhập ngũ như có lệnh gọi đi trường Đồng Đế chẳng hạn, tôi may phước đậu được Tú Tài I dù đậu hạng thứ; rồi đi khai văn bằng và chờ ngày vô trường Thủ Đức, khỏi phải ra Đồng Đế! Thành ra, dù đậu hạng gì gì, tôi nghĩ Tía Má tôi vui lắm vì cho con đi học giống như mình trồng cây, làm ruộng vậy thôi! Trồng cây ai cũng mong vườn cây của mình mau có trái; còn làm ruộng thì mong cho ruộng của mình tới mùa lúa chín trúng mùa! Nuôi con cho con ăn học ai mà không muốn cho con mình học hành không giỏi thì cũng ở hạng kha khá một chút và khi đi thi thì rán đậu với người dù nhớ về những ngày tháng cũ đậu hạng thứ cũng được; có ai muốn con mình thi rớt lên rớt xuống hoài bao giờ! Con mình thi rớt là chuyện vạn bất đắc dĩ thôi! Ai mà không buồn? Rồi khi vào đời Tía Má tôi hay khuyên con cái là dù mình làm gì thì làm hãy nhớ câu: “Nha môn mãn chứ huyện môn không có mãn”, nên cho dù bất cứ ở đâu tôi cũng nhớ lấy lời dạy bảo của song thân lúc mình còn non lòng trẻ dạ ấy! Riêng tôi thì tôi cũng chẳng ở vị trí nào ngoài vị trí cu li thế nên ít khi làm mếch lòng ai và cũng nhờ vậy mà khi về già như bây giờ nhớ lại chuyện xưa khi lưu lạc xuống Cần Thơ, lúc ra tới Nha Trang, lúc về lại Sài Gòn…, dù ở bất cứ nơi nào cũng vậy và cứ mỗi lần ngồi nhớ lại những ngày tháng cũ lòng tôi thấy lương tâm mình không có gì làm mình phải bâng khuâng, cắn rứt hoặc hối hận về việc đối xử với anh em bạn bè cùng nhiệm sở hồi mình còn trẻ! Hồi đó, mấy anh em chúng tôi làm chung với nhau vui lắm! Đứa Sa Đéc, đứa Vũng Tàu, đứa Sài Gòn, đứa Long Xuyên, đứa Thốt Nốt, đứa Cần Thơ, đứa Rạch Giá, đứa Nha Trang, đứa Huế, đứa Quảng Ngãi, đứa Cam Ranh… làm chung một chỗ mà như anh em trong nhà, không có lấy một lời mất lòng nhau! Mãi cho tới hôm nay dù cách xa rồi năm mươi lăm năm, anh em có dịp gặp lại nhau và nhắc nhau những ngày tháng cũ vẫn cứ vui như hồi mới hôm qua đó thôi! Đây có thể nói là một trong những việc đời mà hồi còn trẻ, lúc mình ăn chưa no lo chưa tới, ít khi nào mình nghĩ tới điều ấy, nhưng chính những chất liệu sống của những năm tháng lăn lóc, lưu lạc ấy nó mới là niềm an lạc thực sự ở tuổi già khú đế này vậy!” (Tr. 510-511)
Nguyễn Vy Khanh
[Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Trung, 2025, tr. 583-589]
[Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Trung, 2025, tr. 583-589]

