
I. Huyền Kiêu, Nghĩa Là Kiêu, Thêm Dấu Huyền
Nhà thơ Huyền Kiêu tên thật là Bùi Lão Kiều. Huyền Kiêu có nghĩa là Kiêu, thêm dấu Huyền, thành Kiều.
Ông sinh năm 1915, và mất năm 1995, thọ tám mươi tuổi.
Ngoài làm thơ, ông còn là dịch giả. Huyền Kiêu làm thơ không nhiều. Ông nổi tiếng với hai bài Tương Biệt Dạ và Tình Sầu.
******
II. Những Tranh Cãi Về Bài Thơ Tương Biệt Dạ
Bài Tương Biệt Dạ dưới đây cũng tốn kém nhiều tranh cãi của người đời sau, xuất phát từ hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.
Đại loại thế này, đây là bài thơ của Huyền Kiêu làm, nhân buổi tiệc chia tay của hai người bạn thân thiết là Khái Hưng và Nhất Linh. Sau đêm đó, Nhất Linh sẽ lên đường sang Tàu, chuẩn bị cho những hoạt động bí mật của ông sau này.
Tiệc được tổ chức tại nhà Thạch Lam, Thạch Lam là em ruột của Nhất Linh. Hôm ấy, có: Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng, Đinh Hùng, Huyền Kiêu, Thế Lữ và Nguyễn Tường Bách.
Tranh cãi, bắt đầu diễn ra ở chi tiết: Thạch Lam, chủ nhà, chính là tác giả của câu mở đầu Tương Biệt Dạ, hay, ông còn là người viết nhiều câu khác nữa, ở trong bài.
Nhưng kiểu gì kiểu, đã ký tên Huyền Kiêu thì là của ông Huyền Kiêu. Vả lại, đều là những nhà văn, những thi sĩ có tên tuổi vào thời ấy, thì sá gì, một vài câu thơ, do mình nhân lúc hứng khởi, do mình nhân lúc xúc động, mà đóng góp vô.
Theo tôi, những chuyện ấy, chẳng gì to tát. Trà dư tiểu hậu thì cũng được, còn quyết liệt làm cho ra ngô ra khoai, thì để được gì, và để làm gì. Các ông ấy, bây giờ, biết đâu, nơi tiên giới, đang ngồi khề khà với nhau bên chén rượu, ván cờ, có còn lưu tâm đến chuyện trần thế nữa đâu, mà ta ở dưới này, xôn xao, cho thêm mệt.
******
III. Bài Thơ Tương Biệt Dạ
01. Đinh Hùng – Người Làm Sống Lại Tương Biệt Dạ
Bài thơ Tương Biệt Dạ được viết vào mùa thu năm 1940 của thế kỷ trước, nhưng mãi đến năm 1965, khi cả Khái Hưng và Nhất Linh đều đã mất, thì câu chuyện kể về đêm trăng xưa này, mới được Đinh Hùng – người duy nhứt đêm ấy, di cư vào Nam – sực nhớ ra, và thuật lại.
Tương Biệt Dạ
Hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề
Ý sầu lên vút tới sao Khuê
Quý thay giây phút gần tương biệt
Vương vấn người đi với kẻ về
Ngồi suốt đêm trường không nói năng
Ngậm ngùi chén rượu ánh vừng trăng
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ
Có giống như mình lưu luyến chăng
Đã tắt lò hương lạnh phím đàn
Thư phòng sắp sẵn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một dải sương theo vạn dặm buồn
Sớm biệt ly nhau không nhớ nhau
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng dưng sầu
Trăng mùa xuân đó ai tâm sự?
Anh đã xa rồi, anh biết đâu. - (Hà Nội – Mùa Xuân 1939)
******
02. Tương Biệt Dạ – Bài Thơ Viết Về Buổi Chia Tay Của Đôi Bạn Khái Hưng Và Nhất Linh
Tiệc rượu đêm này, được tổ chức cho Khái Hưng chia tay Nhất Linh. Hai người vốn có một tình bạn thân thiết hơn cả anh em ruột thịt, vì thế, nên buồn. Mà người buồn thì cảnh có vui đâu bao giờ: Hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề / Ý sầu lên vút tới sao Khuê / Quý thay giây phút gần tương biệt / Vương vấn người đi với kẻ về.
Sầu mà mô tả, vút tới sao trên trời, nghĩa là sầu đã lắm lắm rồi đó. Cộng thêm với từ “tương biệt”, khiến cảnh và người cứ man mác, bâng khuâng những niềm không rõ. Nào có đâu ai đặt đá tảng vào lòng, mà vẫn cứ nghe nỗi buồn nằng nặng.
Chỉ có bảy người trong tiệc rượu thôi, mà bà Thạch Lam, qua sáng ngày hôm sau, đếm được cả thảy mười một vỏ chai rượu. Để uống đến độ như vậy, hẳn là họ đã phải trải qua một cơn buồn lắm lắm: Ngồi suốt đêm trường không nói năng / Ngậm ngùi chén rượu ánh vừng trăng / Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ / Có giống như mình lưu luyến chăng.
Buồn thì thường đi liền với cô đơn, với lạnh lẽo, với quạnh hiu, trống vắng: Đã tắt lò hương lạnh phím đàn / Thư phòng sắp sẵn để cô đơn / Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng / Một giải sương theo vạn dặm buồn.
Cái câu “anh đã xa rồi, anh biết đâu”, theo tôi, cũng là một câu hay. Anh đây là chỉ Nhất Linh. Anh đã lên đường rồi, anh có biết cho chăng, chúng tôi, những người ở lại, nhớ anh, và lo lắng cho anh, biết là chừng nào.
Nguyễn Tường Tam, tức Nhất Linh, không chỉ mang con trai mình cho bạn làm con nuôi, đổi tên từ Nguyễn Tường Triệu thành Trần Khánh Triệu, con của Trần Khánh Giư, tức Khái Hưng, vì Khái Hưng hiếm muộn, không có con, mà hai ông Nhất Linh và Khái Hưng còn viết chung nhiều tác phẩm xuất sắc, để lại cho đời sau như: Anh Phải Sống, Gánh Hàng Hoa và Đời Mưa Gió.
Thật ít có một tình bạn văn nào đẹp, đồng điệu, thân thiết, tri kỷ đến như vậy, xưa nay.
******
IV. Bài Thơ Tình Sầu
01. Tình Sầu – Được Nhiều Thế Hệ Yêu Thích
Bài Tình Sầu của Huyền Kiêu được rất nhiều người thuộc thế hệ sau ông, yêu thích và trích dẫn.
Trích dẫn, hoặc chép ra toàn bài khơi khơi vậy thôi, chớ thực tình, tôi cũng chưa thấy ai phân tích hoặc bày tỏ lý do vì sao mình thích. Chỉ là thấy dễ thương, chỉ là thấy rất thơ, nên thích.
Mà nói cho cùng, một bài thơ, sau khi hoàn thành, tác giả nào cũng chỉ mơ được như thế thôi, nghĩa là, được như bài Tình Sầu của Huyền Kiêu, được đông đảo bạn thơ ưa chuộng, được truyền tụng đến nhiều thế hệ sau.
Hiểu được thì tốt. Không hiểu, cũng chẳng sao. Thơ là thế mà. Bản chất thơ là thế mà.
Thơ, bất khả giải.
**
Tình Sầu
Xuân hồng có chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi hoa ngát cài đầu
Đi hái phù dung trong nội
Hè đỏ có chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi khăn thắm quàng đầu
Đi giặt tơ vàng trong suối
Thu biếc có chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi
Đông xám có chàng tới hỏi
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã nghỉ trong hầm mộ lạnh. - (Hà Nội Mùa Thu 1938)
******
02. Bài Thơ Chứa Đủ Bốn Mùa, Xuân, Hạ, Thu, Đông
Theo thiển ý tôi, ở những năm bốn mươi của thế kỷ hai mươi, tức là, đã cách cho đến nay bốn thế hệ, mà, làm được một bài thơ như vậy, viết được một bài thơ như vậy, tôi cho là quá tài.
Huyền Kiêu quá tài.
Bài thơ lạ. Lạ không chỉ ở tứ thơ, ý thơ, mà còn lạ ở cách trình bày, tức là cách sắp xếp, tức là bố cục thơ.
Bốn khổ thơ là thứ tự của bốn mùa xuân, hè, thu, đông. Xuân thì hồng. Hè thì đỏ. Thu thì biếc. Đông thì xám. Và, duy nhất, đến rồi đi, đi rồi quay trở về, bốn mùa ấy, chỉ mỗi một chàng trai.
Cùng hai nhân vật còn lại, là hai chị em. Người chị luôn không có mặt khi chàng trai đến. Và kẻ xưng tôi, là em của cô gái, cũng là người trả lời các câu hỏi của chàng trai.
******
03. Đi Hái Phù Dung Trong Nội
Mùa xuân, mùa đẹp nhất của đời người, chị của em bé chắc lúc ấy cũng chỉ ở khoảng tuổi mười bốn, mười lăm. Tuổi của hoa mộng. Tuổi của ước mơ. Con gái quê, nào sẵn đâu son phấn, muốn làm đẹp, chỉ biết hái đóa hoa cài lên tóc. Và đứa em ngây thơ, trả lời, chị còn đang đi hái phù dung, nội đâu đó quanh nhà.
Tuổi còn xuân, mùa xuân, sao không đi hái hoa xuân như hoa mơ, hoa mận, như trong bài hát Gái Xuân do Từ Vũ phổ thơ của Nguyễn Bính, mà lại đi hái phù dung nhỉ?
Phù dung, sớm nở tối tàn, hay ý Huyền Kiêu muốn ví, làm thân con gái, giống đóa hoa, vừa nở đẹp sớm mơi, chớm khuya đã lụi tàn: Xuân hồng có chàng tới hỏi: / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi hoa ngát cài đầu / Đi hái phù dung trong nội.
Chàng trai hỏi, rồi đi. Vẻ như cái hỏi ấy chỉ là một sự thăm chừng. Tại sao thăm chừng mà không đi tìm gặp? Cũng không rõ. Có thể, vì nàng khi ấy còn bé quá chăng, hay, vì chàng trai khi ấy còn đang nhiều vướng bận, chưa thể nghĩ đến tình riêng?
******
04. Đi Giặt Tơ Vàng Trong Suối
Mùa hè tới. Oi bức. Hanh nồng. Bầu trời đỏ một màu chói chang, khó chịu. Chị, lúc này, đã không còn tuổi bé thơ. Chị đã lớn, đã biết trồng dâu, nuôi tằm, lấy tơ, dệt lụa. Và lúc chàng trai ghé đến, chị đang ngoài suối giũ tơ: Hè đỏ có chàng tới hỏi: / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi khăn thắm quàng đầu / Đi giặt tơ vàng trong suối.
Khăn quàng đầu là để giữ cho mái tóc đừng xổ tung khi làm việc. Khăn quàng đầu là còn để che mát lúc trời nắng nôi. Chị trưởng thành rồi. Chị đã có thể nuôi em và tự chăm sóc mình. Vậy mà hỏi xong, anh ấy lại đi. Sao không đi kiếm chị mình nhỉ. Hẳn đứa em thắc mắc lắm. Nhưng biết hỏi gì bây giờ. Chắc có những lý do riêng không tiện nói. Thì đành vậy, chớ biết làm sao hơn.
******
05. Đi Hái Tình Sầu Trong Núi
Mùa thu, mùa hoàng hôn, mùa úa tàn, xế chiều, nắng tắt. Chị không còn trẻ nữa. Sau bao chờ đợi, chị đã thôi hy vọng. Và, chị buồn. Câu trả lời của đứa em cũng buồn, và, dường như, có chút trách thầm, nhè nhẹ: Thu biếc có chàng tới hỏi: / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi khăn trắng ngang đầu / Đi hát tình sầu trong núi.
Sao lại là khăn trắng ngang đầu? Cô ấy để tang cho cha mẹ vừa mới mất hay để tang cho chính cuộc tình mình? Một mình thơ thẩn vào núi sâu, hát những câu hát sầu cho núi nghe, cho chính mình nghe. Đứa em, vẳng nghe tiếng hát sầu của chị, chắc nó cũng buồn lắm. Nhưng hỏi chàng trai, thì nó vẫn không. Nó lờ mờ hiểu ra, rằng những quan tâm của người đàn ông ấy chỉ là những ái ngại, kiểu như, thấy mình có lỗi, khi mà, họ đã đâu đó, yên bề gia thất rồi.
******
06. Đã Nghỉ Trong Hầm Mộ Lạnh
Mùa đông, mùa lạnh giá. Có đôi, có cặp thì còn ủ ấm nhau trong những ngày rét mướt. Còn chị, chị một mình, mòn mỏi. Và chị thôi, chị không muốn kéo dài thêm những ngày đơn côi, lầm lũi nữa. Chị trao hết lại cho em, giao hết lại cho em, cậy nhờ em hương khói giùm cha mẹ: / Đông xám có chàng tới hỏi / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi hoa phủ đầy đầu / Đã nghỉ trong hầm mộ lạnh.
Mình là người dưng thôi, nghe câu trả lời của đứa em mà còn muốn rớt nước mắt, huống hồ, người đàn ông, tóc chắc cũng đã bạc trắng kia. Kiếp người, sao mà buồn đến thế. Hẳn là sau lần này, người đàn ông cũng không còn tìm đến nữa đâu. Ông ấy dù đau đớn nhưng đã yên lòng rồi. Từ đây, người con gái mà ông đem lòng yêu từ thuở còn thơ ấy, sẽ không còn bơ vơ, không còn phải một mình một bóng nữa.
Và, biết đâu, trên đường quay về, ông ấy sẽ ghé ngang qua hầm mộ, đốt nén hương trầm thơm và lầm rầm khấn vái, đợi anh, em nhé, chúng mình kiếp sau.
******
V. Tình Sầu Là Một Bài Thơ Đẹp, Nhưng Rất Buồn
Tình Sầu là một bài thơ rất buồn. Đẹp, nhưng buồn.
Tất cả các nhân vật trong bài thơ đều buồn. Thảy, đều lặng lẽ, và mỗi người, tự buộc vào mình những nhận mang, những cố nén.
Không chỉ nhân vật, mà tình tiết thơ, mà từ ngữ thơ, cũng sẫm một màu buồn như thế. Buồn lắm. Buồn thắt thẻo cả ruột gan, dẫu hình ảnh mà tác giả tạo dựng lên rất thơ, rất mơ: phù dung, tơ vàng.
Bàng bạc suốt bài thơ là sự sống tưởng tươi vui mà lại rất mỏng manh, tưởng căng tràn sức sống mà lại héo hắt, úa tàn: trong nội, trong suối, trong núi, trong hầm mộ lạnh.
Đời, có bao giờ được như ước mơ đâu.
Thế nên, đời mới sầu. Thế nên, tình cũng sầu. Và bài thơ mang tên Tình Sầu, là vậy đó.
******
VI. Huyền Kiêu, Cha Đẻ Của Từ “Chị Đẹp”
Tình Sầu được nhạc sĩ Việt Dzũng phổ thành ca khúc mang tên Thu Vàng Có Chàng Tới Hỏi và nhạc sĩ Phạm Duy thì phổ thành ca khúc Ngày Xưa Một Chuyện Tình Sầu.
Trên facebook cũng như trong các giao dịch thư tín, trò chuyện đời thường, người ta hay dùng ái ngữ, chị đẹp ơi, em đẹp à. Tôi cho rằng, cha đẻ của ái ngữ này, chính là nhà thơ Huyền Kiêu với bài thơ Tình Sầu, độc nhất vô nhị, của ông.
Sài Gòn 12.05.2025
Phạm Hiền Mây
Nguồn: Fb Phạm Hiền Mây