
Hải Linh (1920-1988) là một nhạc sĩ và nhạc sư Công giáo. Ông được đánh giá là một trong “Những tên tuổi lớn của nền Thánh nhạc Việt Nam đã được đào tạo về âm nhạc và Thánh nhạc tại nước ngoài“có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của Thánh nhạc Việt Nam.
Ông tên thật là Trần Văn Linh, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920, trong một gia đình Công giáo sùng đạo ở Giáo phận Phát Diệm, Ninh Bình. Ông có tên thánh là Phanxicô. Trong cuộc đời mình, ngoài 2 bút danh thường dùng là Hải Linh, Minh Đệ, ông còn dùng nhiều tên khác như Phanxico Assisi Trần Văn Đệ, Trần Văn Trị.
Thuở nhỏ, ông theo học ở trường Thử ở Trung Linh (Nam Định). Năm 16 tuổi, ông vào học ở Tiểu Chủng Viện Ninh Cường. Đến năm 18 tuổi, ông học tại trường Thầy Giảng (Bùi Chu) và sau đó được giữ lại để dạy Pháp văn và âm nhạc tại trường. Thời gian này, ông bắt đầu sáng tác một số bài hát đạo cũng như đời..
Ngày 1 tháng 5 năm 1951, ông theo học nhạc tại Viện Giáo nhạc thuộc Học viện Công giáo Paris (Institut Catholique de Paris), đồng thời học sáng tác tại Nhạc viện César Frenck do giáo sư Guy de Lioncourt làm giám đốc. Ông tốt nghiệp hạng ưu năm 1956 tại đây với luận án “La Couleur Vietnamienne dans le chant Grégorien”. Năm 1956, ông trở về Việt Nam, dạy hợp ca tại Viện Quốc gia âm nhạc. Ông cũng thành lập Ca đoàn Hồn Nước nhằm thực hiện hoài bão của mình là trình tấu sống động các tác phẩm được soạn ra bằng một lối viết thoáng mỏng theo tinh thần Á Đông.
Năm 1961, ông nhận được học bổng sang nghiên cứu âm nhạc, giáo dục tại Đại Học Ohio (Hoa Kỳ). Từ năm 1970 đến năm 1975, ông dạy nhạc tại Đại Học Đà Lạt và tham gia Ủy ban Thánh Nhạc toàn quốc. Từ năm 1973 đến đầu năm 1975, ông làm Phân khoa trưởng của Phân khoa Âm nhạc Viện Đại Học Đà Lạt.
Sau năm 1975, ông không tham gia các hoạt động âm nhạc công khai dù vẫn sáng tác và dạy nhạc trong cộng đồng Công giáo tại Việt Nam. Ông đã hướng dẫn 2 lớp ca trưởng tại nhà thờ Huyện Sỹ, đường Bùi Chu, quận 1, cho đến khi đi xuất cảnh sang Hoa Kỳ.
Ngày 8 tháng 5 năm 1986, ông xuất cảnh theo diện đoàn tụ gia đình tại New Orleans (Louisiana, Hoa Kỳ). Tại Mỹ, ông trở lại hoạt động âm nhạc trong cộng đồng người Việt tại Mỹ với việc mở các lớp Ca trưởng ở nhiều tiểu bang khác nhau (New Orleans (LA), California, Portland (Oregon), Missouri, Texas…); đồng thời, tập luyện cho nhiều ca đoàn ở nhiều nơi khác nhau để hát trong nhiều dịp lễ.
Ông qua đời ngày 6 tháng 1 năm 1988 tại bệnh viện Fountain Valley, Los Angeles vì một cơn nhồi máu cơ tim. (theo Wikipedia)
Đưa Nhạc Vào Thơ: Một Ngón Tài Hoa Của Hải Linh
=======
Một Nén Hương Tưởng Niệm Tác Giả bài Thánh Ca Bất Hủ: Hang Belem Nhân Lễ Mãn Tang Cố Nhạc Sĩ Hải Linh
Chiều Chúa Nnhật 6-1-1991, tại nhà thờ Tân Sa Châu, một buổi lễ đồng tế trang trọng với trên 30 Linh Mục và Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình chủ tế, được tổ chức để tưởng nhớ ba năm ngày qua đời của cố nhạc sĩ Phanxicô Hải Linh. Cũng vào buổi chiều cùng ngày, một số nhà thờ khác trong giáo phận cũng dâng lễ cầu nguyện và tưởng niệm cố nhạc sĩ và nhắc nhớ đến công lao to lớn của một nhạc sĩ bậc thầy trong công cuộc hình thành và phát triển thánh nhạc Việt Nam vào những thập niên 40, 50, 60… Và suốt một đời hoạt động âm nhạc đã để lại hơn 100 tác phẩm âm nhạc nhằm tôn vinh Thiên Chúa và tán tụng quê hương.
Nếu trước thánh lễ có nghi thức tưởng niệm với một phần tác phẩm của cố nhạc sĩ Hải Linh và Linh Mục Xuân Thảo: Trường Ca Các Tạo Vật được thể hiện bằng hợp xướng và dàn giao hưởng đã làm đông đảo những người tham dự thánh lễ xao xuyến, nhớ thương; thì kết lễ, tất cả mọi người đều say sưa cùng hát bài thánh ca bất hủ “Hang Belem” đã làm tôi vô cùng xúc động.
“Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời…
Nằm trong hang đá, nơi máng lừa
Trong hang Belem…”
Câu hát ấy, giai điệu ấy, bài thánh ca ấy đã có số tuổi lớn hơn tuổi tôi! Khi tôi biết nghe, biết nói, biết đi đến nhà thờ là đã có bài hát ấy. Đó cũng là bài thánh ca đầu tiên mà tôi thuộc lòng vào mỗi dịp Giáng Sinh của một thời ấu thơ. Mãi đến bây giờ, tóc đã bắt đầu nhuộm màu sương khói… bài hát ấy là bài thánh ca duy nhất mà tôi còn thuộc nằm lòng.
Cái gì đã làm cho bài hát rất giản dị, sáng trong ấy tồn mãi trong lòng người? Và ai dám bảo là nó sẽ không tồn tại mãi đến đời sau? Hồi còn sinh tiền, cố nhạc sĩ Hải Linh đã có lần kể về sự ra đời của bài hát Hang Bê-lem:
“Đó là bài đầu tiên mà tôi viết vào tháng 11 năm 1945. Lúc ấy tôi được 25 tuổi và đang dạy học ở trường thầy Giảng Bùi Chu.
Một hôm, tôi đi ngang qua Tòa sọan bán nguyệt san Đường Sống ở Nam Định, ông Minh Châu-chủ nhiệm-thấy tôi thường hay hát nên đố tôi làm được một bài để đăng vào báo Đường Sống nhân mùa Giáng Sinh. Tôi nhận lời và hẹn ba ngày sau trở lại.
Sau ba ngày tôi đưa bản nhạc Hang Bê-lem tới Tòa soạn và tập sơ qua cho một số anh chị em trong Tòa soạn. Khi hát lên, mọi người thấy thích quá nên ông Minh Châu mới thương lượng với tôi thế này: Ông sẽ chi phí cho người cầm bản nhạc lên Hà Nội để tìm Mạnh Quỳnh và thuê Mạnh Quỳnh khắc vào bản gỗ. Sau khi đã in 2000 số báo Đường Sống, ông Minh Châu sẽ cho tôi lại bản gỗ của bản nhạc. Tôi cũng đồng ý như vậy.
Tôi còn nhớ, lúc đó tôi đã in ra 500 bản với giá 3 hào hay 5 xu gì đó. Tôi gởi lên Hà Nội 10 bản. Một số nhà thờ hát và nhiều người thấy hay nhưng không tìm đâu ra bản nhạc. Thật đúng tôi là một anh nhà quê! Đối với thủ đô Hà Nội mà chỉ có gởi 10 bản nhạc!”.
Bài Hang Bê-lem đã ra đời như thế, và đã được chính tác giả điều khiển ca đoàn nhà thờ chính tòa Phát Diệm hát lần đầu tiên trong thánh lễ Đêm Giáng Sinh 1945. Chính nhờ sự thành công của bài hát này, thầy Phanxicô Hải Linh (tên thật là Trần văn Linh, quê xứ Ứng Luật, Kim Sơn, Ninh Bình) đã được Giám Mục Phát Diệm gởi đi du học ở Âu Châu vào năm 1950. Học nhạc ở Ý và học sáng tác ở Paris.
Chuyện kể về cố nhạc sĩ Hải Linh không dừng lại ở sáng tác đầu tay: Hang Bê-lem, mà còn được nhắc nhở nhiều đến các tác phẩm âm nhạc nổi tiếng sau này về đạo cũng như về đời: Trưòng Ca Các Tạo Vật (dùng lời kinh của thánh Phanxicô, sáng tác chung với Xuân Thảo) gồm 10 bài, Trường Ca Ave Maria (phổ thơ Hàn Mặc Tử) gồm 10 bài. Và một số bài thánh ca riêng lẻ như Kính Mừng Nữ Vương, Tán Tụng Hồng Ân, Ngài Là Thiên Chúa (Te Deum)… và một số bài thánh ca khác đã được hát trong 40 năm qua.
Về phần nhạc đời, cố nhạc sĩ đã để lại trong kho tàng âm nhạc Việt Nam những tác phẩm như: Đại Tấu Khúc Chinh Phụ Ngâm (trích thơ Đặng Trần Côn). Tác phẩm này được viết theo nhạc Việt nhưng hình thức vẫn theo lối cổ điển phương Tây, chia làm ba hành âm (mouvement): Từ khi có lệnh chiến chinh “Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt…” cho đến khi người chinh phụ tiễn chinh phu lên đường lo việc nước. Cảnh người chinh phụ cô đơn chiếc bóng ở lại nhà săn sóc mẹ già và con thơ “Gà eo óc gáy sương năm trống…”. Phần kết kể lại ngày đoàn viên… Đại tấu chuông hòa bình viết cho dàn đại hòa tấu và ban hợp xướng cùng với một số nhạc khí cổ truyền; Nhạc kịch thơ Duyên Kỳ Ngộ (thơ Hàn Mặc Tử), đây là một thể loại tiểu nhạc kịch (micro-opera), Trường ca cung đàn bạc mệnh (trích thơ của Nguyễn Du trong tác phẩm truyện Kiều), gồm bốn cung chia ra như sau:
– Cung thứ nhất, gồm 10 bài, tả lại tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe
– Cung thứ hai, gồm sáu bài, tả lại tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Thúc Sinh và Hoạn Thư nghe.
– Cung thứ ba là tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Hồ Tôn Hiến.
– Và cung thứ tư là tiếng đàn của Thúy kiều gảy cho Kim Trọng lúc tái hồi.
Thật tiếc, cố nhạc sĩ Hải Linh đã chưa hoàn tất cung đàn bạc mệnh cuối cùng… Riêng các tác phẩm âm nhạc độc lập (không nằm trong bộ hay trường ca nào) cũng rất đáng chú ý như: Đà Lạt Trăng Mờ, Ra Đời (thơ Hàn Mặc Tử), Nhạc Việt, Hương Quê, Ra Khơi, Tình Nước Non, Cóc Quân Đả Phá Thiên Đình, Thằng Bờm Có Cái Quạt Mo… Về phương diện học thuật, cố nhạc sĩ đã để lại những kinh nghiệm sáng tác, kỹ thuật và phương pháp điều khiển dàn giao hưởng và hợp xướng qua hai cuốn sách mang tên Lối viết thoáng mỏng và lối Trình tấu sống động.
Tôi xin thắp một nén hương tưởng nhớ trước di sản tinh thần quý giá mà suốt đời hoạt động âm nhạc, nhạc sĩ tài hoa đã chắt chiu, dành dụm để một nửa Tôn vinh Thiên Chúa, một nửa kia Tán tụng quê hương. Qua nén hương tưởng niệm này, tôi cầu mong tất cả di sản âm nhạc của cố nhạc sĩ Hải Linh sẽ được giữ gìn và đến với tất cả mọi người có đạo cũng như không có đạo, những người có tâm hồn thiết tha với niềm tin yêu Thiên Chúa mà cũng yêu mến đất nước, quê hương, dân tộc… thiết tha.
Vũ Duy Giang
(CG&DT790)