
Từ phải sang trái: Tâm Thanh, Khánh Hà, Nguyễn Văn Thực, Đinh Ngọc Cần, hè 2013, tại vườn nhà của Tâm Thanh & Khánh Hà, Skedmoskorset, Na Uy.
Tôi, một chiều Thu 2013, vội vã mở thùng thư trước khi đạp xe đi làm, vội vã và nản nản trước công việc nặng nhọc đang chờ mình, thì thấy một phong bì, tôi đoán là có sách mà tôi đã đặt mua, mừng, nhưng khi mở ra lại mừng hơn vì đấy là tác phẩm mới của Tâm Thanh gởi tặng. Mừng là vì mỗi tác phẩm Tâm Thanh ra đời là một biến cố quan trọng trong trong đời sống văn học của tôi. Truyện ngắn của anh đã nâng nghệ thuật viết truyện ngắn Việt Nam lên thêm một bậc. Anh đã cho ra đời ba tập truyện ngắn như thế. Nhưng tôi chững lại khi đọc tựa đề cuốn sách: Lệnh Triệu Ban Rồi, chữ in hoa, mẫu chữ chững chạc, uy nghiêm công đường, chữ lại màu đỏ, cái uy nghiêm công đường lại càng hiện rõ thêm, hàng chữ còn nằm trên nền đen. Và cái nền đen với hàng chữ kể trên lớn gấp hai cái nền dưới màu xám hư hao bị đè bẹp thấy rõ, với hàng chữ thường cở chữ nhỏ ốm yếu phận người, bằng một phần ba cở chữ của hàng chữ uy nghiêm trên kia: một trường hợp ung thư. Vẽ bìa như thế mới là vẽ bìa chứ! Thằng cha nào vậy? Tôi tò mò lật vào trang trong thấy ngay: Bìa: Tiêu Dao.
Trong tác phẩm, tác giả dùng từ ”bạn” như đại danh từ ngôi thứ nhất để rỉ rả tâm sự, chia sẻ với các bạn khác và người thân.
Trước đó không lâu, tôi phong phanh nghe anh bệnh, một loại bệnh mang tính án tử. Bệnh ung thư. Tôi buồn, tôi buồn.
Nhưng tôi tôn trọng sự đau đớn của anh như lâu nay tôi vẫn tôn trọng sự tĩnh lặng của một người trí thức trước và sau khi bắt đầu cuộc sống nhàn tản của anh: chỉ gởi mail khi cần, vài câu thơ, câu đối tặng cuối năm, nhưng không đến chơi cũng như điện thoại mà tôi nghĩ sẽ quấy rối anh. Có thể anh không nghĩ như thế; tôi quá cẩn trọng, suy bụng ta ra bụng người.
Chiều đó, ở sở làm, tôi lại kiếm cách, trộm giờ đọc được mươi trang của cuốn sách. Cảm giác đầu tiên của tôi là mình đang chạm tới cái mênh mông dễ chịu, đọc tử thư mà lòng lại thấy nhẹ nhàng. Các bạn xem: trên kia tôi vừa mới Tôi buồn, tôi buồn! Sao vậy? Nói ra giùm coi!
Cuốn sách gồm những mảnh suy tư nhỏ, có những ý lạ về bệnh, hay nói cách khác bệnh cũng có cái hay của nó, quá hay nữa là khác:
- ”Bệnh, cây roi của từ phụ.”
- Có bệnh mới dễ thương người khác, hơn khi còn khoẻ, vì tha nhân là đồng hành chung phận. Chung phận với cả loài vật.
- Nhờ bệnh mà Tâm Thanh mới thấy được nghệ thuật sống tràn đầy, sống trọn cái đời sống quá ngắn ngủi. Đời sống làm bằng những chuổi khoảnh khắc. Thiên Thu cũng vậy. Sống mà ý thức mình sống trong từng cử chỉ, hành vi. Định tâm vào mỗi hơi thở là bạn nắm được hiện tại. Trì hoãn một giây trước mỗi phản ứng là bạn làm chủ được mình, ví dụ như khi mở thư người mình hằng trông mong, khi mở vòi nước: khoan thai. Tổng cộng những giây phút khoan thai trong một ngày - những “thì chết” - thực ra là những thì sống.
- Và thấy “Những chân lý như Thượng đế và Phật tính, cứu độ và giải thoát, linh hồn và luân hồi, vv, bề ngoài có vẻ mâu thuẩn loại trừ nhau, ngày nay bạn thấy tất cả được dung hợp, mặc dầu bạn chỉ có thể hành một đạo, Ki-tô giáo… Bạn ước mong làm người lữ hành tới nơi tới chốn một con đường, nhưng bước chân trên một con đường là đi mọi con đường khác về cùng đích.”
Tác giả chỉ cầu tự giác, không có khả năng giác tha, không có khả năng truyền đạo, truyền một loại đạo như đạo Công giáo, một đạo độc thần, một Chúa có bản vị, với một hệ thống thần học cơ cấu chắc nịch, mang tính loại trừ các đạo khác một cách rõ ràng về phần hình nhi thượng. Phải chăng những điều tác giả muốn nói ở đây là nói về đạo làm người, đạo sống, phần nhi hạ của đạo, như câu người ta hay nói: “Đạo nào cũng là đạo. Đạo nào mà chẳng dạy ta ăn ngay ở lành.”?
Tác giả chỉ cầu tự giác, không có khả năng giác tha, không có khả năng truyền đạo, truyền một loại đạo như đạo Công giáo, một đạo độc thần, một Chúa có bản vị, với một hệ thống thần học cơ cấu chắc nịch, mang tính loại trừ các đạo khác một cách rõ ràng về phần hình nhi thượng. Phải chăng những điều tác giả muốn nói ở đây là nói về đạo làm người, đạo sống, phần nhi hạ của đạo, như câu người ta hay nói: “Đạo nào cũng là đạo. Đạo nào mà chẳng dạy ta ăn ngay ở lành.”?
- Đau khổ còn có một dụng cụ cao hơn đó là thanh tẩy và thăng hoa. Tác giả cũng biết đau, nhưng đau đớn làm cho tác giả ý thức được rằng: “Trong sự sống đã cài sẵn mầm chết, sống một phút là chết đi một phút. Ngược lại chết, là tái sinh.”
- Trong trường hợp đặc thù của tác giả, nhờ bệnh mà Tâm Thanh gặp được người người bạn đường. Tác giả muốn ý trung nhân ở chung, nàng không chịu, nhưng khi tung ngón khổ nhục kế: bệnh lao ho ra máu, nàng bỏ qua gia phong:
“Không ngờ cô sụp đôi mắt cong xuống, nói: ‘Cũng được. Chỉ để (em) chăm sóc anh thôi à nghe!’”
“Tình yêu đến với bạn như giấc mơ, như phép lạ. Nước cam lồ rót vào bạn qua cái phểu bất hạnh, đau đớn bệnh tật.”
Và nàng đã mở cửa địa đàng cho chàng, như một tiểu đề trong sách: Gia Đình, Cửa Địa Đàng.
- Nhờ bệnh mà thấy được tình con cái qua những chăm lo tỉ mỉ của đứa con gái, qua những câu nói hóm hỉnh ý nhị khi giúp ba, nhắc ba. “Một hôm bạn ngồi trong cầu tiêu ở trạm trực y tế, để lấy mẫu thử phân, rặn hoài không ra. Nó thấy lâu quá, gõ cửa nói: ‘Ba không có gì đọc phải hôn? Con chỉ có cái bằng lái xe của con, Ba đọc đỡ nghe Ba.’ Bạn phì cười, và lạ thay một cục lì lợm phải thò đầu ra.” Ngay cả đứa con trai đại lãn: “Đi làm về là nó mở máy tính, nằm theo thế César ăn tiệc, chờ mẹ bưng cơm tới tận giường. Nó lệ thuộc hoàn toàn vào sự nuông chiều của mẹ, từ ly nước xí muội cho tới đôi vớ.” Chàng đi làm gọi điện thoại cho má, hỏi má có cần mua gì cho ba không. Dù mẹ nói không cần gì nó vẫn mua về cho bố một vài vật gì đó mà nó nghĩ bố thích - trái đu đủ, một phong bánh khô, hai chai vørterøl…” Chàng đại lãn ấy, đôi khi, ở một chổ khác Tâm Thanh gọi là thằng khờ, chính là Tiêu Dao, người vẽ mẫu bìa ăn ý hoàn toàn với tấm lòng cha mình.
Ai làm cho bạn lành bệnh?
Một người đạo Hồi đồng bệnh chung phòng thì cho là ”Ai làm gì thì làm, người làm cho bạn hết bệnh, chính là Allah”. Nhưng tác giả lại cho đó là nhờ nền y tế Na Uy và những bác sĩ tận tâm và tài giỏi Gladehaug và Jakub (đạo Hồi). ”Thật vô ơn với Thượng đế nếu bạn quên các sứ giả của ngài.”
Phần nói về chòm xóm, bạn văn, đồng môn, các bạn bè thời niên thiếu, các nữ tu, đồng hương ở Na Uy, bạn bè, chiếm một phần khá lớn trong cuốn sách. Xét về mặt nghệ thuật, đây là phần quan trọng, vì Tâm Thanh đã với một vài nét đã tài tình phác họa được những mẫu người độc đáo:
- Anh C., để nói tới lòng tốt, sự ân cần của anh, Tâm Thanh chấm phá một vài nét như sau: “C. thường là người đầu tiên tiến lại bắt tay thăm hỏi khi bạn vừa ngơ ngác vào một hội trường đông người. Khi bạn ra về C. cũng là người tiễn duy nhất.” Cảnh này làm tôi nhớ tới cảnh Mục Sư (Cha xứ chính thống giáo) Koruga và con trai Traian tiếp đón quýnh quáng mà tự nhiên, ân cần mà như không chàng Iohan Moritz khốn khổ bồng người yêu Suzanna đang trong cơn quẫn bách dưới mưa tầm tã vào nhà xứ xin trú ngụ, trong cuốn Giờ thứ Hai Mươi Lăm của Virgil Gheorghiu. Những hành vi như thế, nhân vật Traianm cũng là một nhà văn trong truyện, có cảm tưởng như sau:
“Traian lại nghĩ: ‘Thượng đế cũng hành động vô ích như thế, khi tạo lập vũ trụ. Thượng Đế sáng lập nhiều vật không lợi ích thật tiễn, nhưng đó là những công trình tuyệt mỹ. Đời người là một sáng tạo vô ích. Cũng vô ích và vô lý như hành động của ta và cha ta bây giờ. Song le, sự nhiệt tâm rất cao quý. Dẫu vô ích, nhưng nhiệt tâm ấy không có gì so sánh nổi!’" (Lê Ngọc Trụ và Võ Thị Hay dịch)
- Nhóm xập xám mà Tâm Thanh là thành viên, họ tự diễu là nhóm “Tám lão mất nết”. “Có người gọi chúng tôi là mất nết, nhưng chúng tôi có nết đâu mà mất, nhưng vui vẻ nhận cái tên hay hay”. Chừng đó cũng đủ vẽ ra được cái tình thân tới cỡ nào của nhóm.
- Để nói về cái tình của chị Thu Sương, vợ bác sĩ Mộ: “Vậy mà anh bị Parkinson mười sáu năm nay. Mười sáu năm chị chăm sóc anh vô cùng vất vả, càng những năm về sau càng vất vả, người ngoài khó lòng tưởng tượng nổi, vậy mà chị cười nhiều hơn khóc. Cái lần chị khóc nhiều nhất có lẽ là lần chị đi công chuyện về, thấy anh phong phanh ngồi trên ghế giữa nhà, trên vai khoác cái váy của chị, mặt ngơ ngác, mắt thất thần.”
- Về chị Hồng Trinh, cũng bị ung thư, để nói tới ý chí của chị, Tâm Thanh viết: “Dù kiệt quệ vẫn mỗi sáng đứng dậy đi làm, ngày nghỉ đi 700 cây số lên đại học Trondheim kèm bài cho con trai. Vài lần bạn lái xe đi làm, thấy chị ẻo lả lội tuyết bắt xe điện đi làm mà mủi lòng.”
- Về cặp Tập-Bảy: ”Thói đời vợ chồng đồng loã thì nhiều, đồng chí thì hiếm, anh chị Tập-Bảy trong trường hợp sau.”
- Và còn nhiều nữa.
Những mẫu nhân vật kể trên với những tính cách cao đẹp của tình người, tình bạn của một lớp người nay đang sắp tiệt giống, với những miêu tả như thế, Tâm Thanh vô tình đã tạo được bộ sưu tầm quý giá về nhân văn cho đời sau.

Và rồi những nét hóm hỉnh, đầy minh trí của tác giả vốn có trong các truyện ngắn, còn có cả ở đây:
”Vợ bạn và hai đứa con hì hục nhiều lắm mới tìm được những thực phẩm hợp với bạn, nhưng hợp hôm nay bỗng nhiên ngày mai giở chứng không hợp, y như người Việt hải ngoại với nhau.”
Và còn nhiều nữa.
No đầy tình thương của vợ con, bạn bè, đồng hưong, chòm xóm, của đất nước Na Uy, đã sống thêm 7 năm hơn tuổi thọ trung bình 67 của người Việt: được ngắm, được ngửi 7 mùa hoa nở, được “Con gái đã hôn ba mấy ngàn lần, đã lau mấy tỉ hạt bụi trong nhà, đã mua cho ba mấy chục bộ quần áo. Đã mấy ngàn lần con trai hí hửng vì được kéo thẻ cho ba hoặc mua được món lạ ba ăn được... Em đã cầm tay anh thêm 7 năm, đắp chung mền Sở Tị Nạn 2555 đêm, đã cùng nhau đi gần cùng khắp trái đất. Đã cùng nhau ngắm sao đêm trên sa mạc, trên đại đương... chúng ta còn tham lam gì nữa?”, và với dự án quan trọng nhất bây giờ là quay về với sơ tâm nhẹ nhàng, hay nói cách khác ý thức mình đã trở thành ”con trẻ”, theo lời dạy của Chúa Giêsu, với ”mộc mạc, chân phác” của Lão tử, với ”sơ tâm” của Thiền (Nhật Bản?), đã biết và cảm phục sự ra đi không luyến tiếc của GS triết học Lê Tôn Nghiêm (1), rồi tâm đắc lập luận của Huệ Tử rằng cái chết của vợ ông ta là lẽ tự nhiên, Tâm Thanh sẵn sàng theo Lời Triệu Ban Rồi lên đường đi vào Cõi Khác.
Nhưng Khánh Hà, người yêu một thủa và muôn thủa đó của Tâm Thanh thì sao? Nàng có sẵn sàng cho chàng ra đi không?
Không, không, không.
Trong 23 bài trong tập-thơ-kèm Vần Cuối Cho Anh, tôi thấy nàng vẫn luyến tiếc; không có một cái ý siêu việt, trường phái suy tư nào, ngay cả ”trường phái Tâm Thanh”, chồng mình, có thể làm cho nàng ok chuyện chàng xa nàng. Nàng đã yêu và chăm sóc chàng gầy yếu, bệnh hoạn từ miếng ăn: ”Nàng làm bếp một cách khoan thai và âu yếm” đến thuốc men như con thú hoang biết bạn mình cần thuốc gì khi đau ốm, nàng không muốn bất cứ tư tưởng của trường phái nào o bế, chăm sóc, những tư tưởng mà chàng đã cần mẫn học hỏi, sưu tầm, sàng lọc, nhào nặn, và rồi đưa ra để dặn lòng, mà chàng dùng để đóng thuyền vượt sông Lú sao cho êm dằm xuôi mái. Nhưng, xem ra tình yêu của nàng mà thôi cũng đủ thay thế những thứ ấy, nàng là hành trang duy nhất của chàng, khi chàng buộc phải qua Bên Kia:
Một mai người có lìa xa
Trở về bản thể, nơi ta cùng về. (người viết nhấn mạnh).
Cũng cần nêu ra: Thơ Khánh Hà lần này không trau chuốt như những tập thơ trước. Tại sao? Bạn đọc hẳn đã có câu trả lời.
Đọc xong tác phẩm của Tâm Thanh, tôi vẫn còn cái cảm giác đầu tiên: như chạm tới cái mênh mông dễ chịu.
Nhưng khi đọc xong tập thơ ly biệt chàng của nàng ở phần tiếp, tôi không dám nói gì nữa, tôi thiệt không biết nói sao đây.
Oslo, 5 I 2014
Nguyễn Văn Thực
(1) Phụ lục:
Khi đọc giai thoại về cái chết của GS Lê Tôn Nghiêm dưới tiểu đề Ra đi không luyến tiếc như sau: ”Gs LTN đã ra đi trong chấp nhận và bình tĩnh đáng kính phục của vợ con. Năm 1979 bạn tới nhà Thầy ở đường NV Thoại, để rủ Thầy đi vượt biên, Thầy không đi vì sợ bị bắt. Mươi năm sau thầy mất, chị Hiền của bạn cùng vài sinh viên cũ của thầy tới chia buồn với cô Sương và viếng xác. Chị kể lại khi các chị tới nơi thấy cuối quan tài có tấm bảng đề ”Mon Dieu, la Destinée” (Thượng Đế của tôi, Định Mệnh); còn con gái của Thầy đang đánh dương cầm trên lầu, một điệu nhạc Mozart vui tươi. Bạn tự hỏi Thầy đã dạy con thế nào để em có thái độ minh triết như thế.”, thì tôi đã gởi mail cho anh Tâm Thanh và đoán già đoán non như sau:
(Fra: Nguyen Van Thuc
Til: Tam thanh Ngo
Sendt: Fredag, 27. september 2013 7.52)
Thưa anh,
Xin bàn với anh về thông điệp cuối cùng của Thầy Nghiêm (một thông điệp quý hiếm anh đã đem ra chia sẻ).
"Mươi năm sau Thầy mất, chị Hiền của bạn cùng vài sinh viên cũ của Thầy tới chia buồn với cô Sương và viếng xác. Chị kể lại khi các chị tới nơi thấy cuối quan tài có tấm bảng đề "Mon Dieu, la Destinée" (Thượng Đế của tôi, Định mệnh), LTBR, trang 171.
Nghi vấn 1:
Mon Dieu là một tán thán từ, như trong bài Mon Dieu, lời của Michel Vaucaire và nhạc của Charles Dumont, Edith Piaf hát:
Mon Dieu! Mon Dieu! Mon Dieu!
Laissez-le-moi
Encore un peu,
Mon amoureux!
Un jour, deux jours, huit jours...
Laissez-le-moi
Encore un peu
A moi...
Như vậy, câu ”Mon Dieu, la Destinée” sẽ thành ”Mon Dieu, la Destinée!” dịch cứng ra tiếng Việt: ”Trời (Chúa) ơi, Định mệnh!” hay dịch mềm ra ”Than ôi, Định mệnh!”
Em nghĩ GS Nghiêm cũng như Kant, kẻ trước khi mất vào tuổi 80 có lẽ đã nói: "Es ist gut." : "Thế là tốt." Kant thốt lên như thế có lẽ khi đó nhìn lại đời mình với những thành tựu đồ sộ về trước tác triết lý, nghệ thuật và vật lý của mình, và nhất là được sống trong thời đại văn minh chiếu sáng mà mình góp phần vào. Còn Thầy Nghiêm của chúng ta với những đóng góp đồ sộ ở chổ giới thiệu triết học Tây Phương cho miền Nam VN, và với hoàn cảnh của Thầy sau 1975 man rợ ra sao ai cũng đều biết, đó là chưa nói tới đời tư của Thầy, trong một bối cảnh như thế, Thầy thốt "Mon Dieu, la Destinée!" là hợp lẽ hơn là Thầy muốn nêu ra những ý niệm riêng lẽ "Mon Dieu, la Destinée" cho đời sau.
Nghi vấn 2:
Nếu Dieu là một danh từ thì sẽ viết là ”Dieu et la Destinée” như trong câu ”Dieu et mon Droit: Thiên Chúa và Uy Quyền của Ta” vốn là câu châm ngôn nguyên văn tiếng Pháp của các vua Anh. (Chuyện xử sụng châm ngôn tiếng Pháp trong các châm ngôn dưới các huy hiệu ở Anh thời xưa là chuyện bình thường.)
Kính thư,
Nguyễn Văn Thà
Và Tâm Thanh đã trả lời như sau:
(To MeCan This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Sep 27, 2013)
Anh Thực, Cần thân,
Cám ơn hai bạn đã tiếp nhận lời tạ từ với tình cảm nồng nàn. Lại còn có lời bình luận lý thú.
Về "Mon Dieu, la destinée", góc nhìn và lý giải của anh Thực rất mới, thán từ và dấu phảy quyết định ý Thầy. Ý tứ của cao nhân bao giờ cũng rộng mở, hiểu nhiều cách. Tôi lại không được chính mắt đọc "thông điệp", chỉ nghe chị tôi kể lại, và chị kể lại cái bối cảnh lúc đó - Thầy từ chối đám tang tôn giáo (nên chị Hiền hiểu Thầy coi định mệnh là Thượng đế "của mình") và tôi bị ảnh hưởng theo lời kể của một nữ tu sùng đạo hết mình đi giã biệt một linh mục défroqué (phá giới - Thực chú thích). Cô Sương vợ Thầy cùng làm ở Hạ Viện với tôi (cô làm chủ sự phòng lương bổng hay văn khố thì phải) là người rất sùng Phật, nhưng đã không mời sư tới cúng. Điều này chứng tỏ Thầy của chúng ta chỉ đi tìm chân lý, không thích nghi thức tôn giáo nào. Và có lẽ Thầy không tìm thấy chân lý tuyệt đối, tất cả cuộc đời Thầy là do Định Mệnh dun dủi. Hiểu cách này thì gần với cách hiểu của anh Thực hơn, và bà chị tôi chắc bớt buồn hơn vì chị cứ cho rằng "ông cha phá giới bỏ cả Chúa".
(Tuy là email, nhưng vì Tâm Thanh đã trả lời cho 3 người, Cucu_vinhlong, Can, Thuc, như thế là đã công khai, nên xin đưa ra như trên.)