
Mâm cỗ cúng ngày Tết Đoan Ngọ. Ảnh: Báo Sức khỏe & Đời Sống
Vũ Thị Tuyết Nhung: Cỗ Tết Đoan Ngọ: Cơm rượu – Hoa trái – Vịt ngan ngỗng.
Mới Mồng Một đầu tháng Năm âm lịch, đã nghe lao xao bên hàng xóm: “Sắp đến Tết Mồng Năm tháng Năm rồi đấy”. Thế là lại rộn ràng khắp xóm ngõ.
Ô mà thực, vải thiều đã đỏ chợ từ những hôm nào. Dưa hấu cũng đã nổi cát, mận tím lịm và đào thì má phấn lông tơ... Mấy hôm trước, bà thím dưới quê gửi cho mấy cân nếp chiêm xay vỡ vỏ, lại kèm sẵn dăm bảy bánh men rượu trắng ngà, tròn um như cái trứng nhện, dính thêm mấy mảnh trấu vỡ vàng ươm.
Thế là náo nức lên hết thảy. Mẹ thì giục con đem gạo nếp xay ra chọn lại một lần nữa cho sạch trấu mảy. Rồi đem thổi xôi sẵn vài lần, mới đem ủ men trong chiếc rá úp mấy lần lá sen bánh tẻ. Tận dưới lót lá chuối xanh. Trên đậy mảnh vỉ buồm bằng cói đan. Treo cao, đậy kỹ tránh chuột bọ lục. Bà láng giềng bên cạnh nghe phong thanh cũng đã chạy vội sang chợ Hàng Bè đặt sẵn vài cân cơm rượu, hẹn đúng sáng mồng năm là vừa chín tới.
Dưới quê sau vụ gặt chiêm sớm, gửi cho đôi vịt đàn vừa chéo cánh. Vậy là chị Trưởng đâu, sáng mai nhớ dạy sớm ra chợ mua lấy cân măng củ tươi, vài ba cân bún Phú Đô loại nhỏ sợi ấy, vài mớ húng quế làng Láng, cùng lạc rang để làm món tiết canh và bún vịt xáo măng. Ông Trời mới khéo sắp xếp làm sao. Vừa tan vụ gặt, vào mùa đuổi đồng, vịt tơ béo mẫm. Vừa chớm tiết mưa, măng non trắng nõn, chưa thái đã nghe giòn sần sật đầu lưỡi. Vậy là chắc có nồi măng xáo cho cỗ Tết Đoan Ngọ.
Còn hoa quả, phải chính tay bà mẹ đi chợ chọn lấy. Cũng thì vải thiều, nhưng phải kén đúng giống Thanh Hà, mã trắng, trái nhỏ không nổi gai, thế mới ngọt nước, dày cùi, hạt nhỏ như hạt thóc. Chớ ham trái vải đỏ sẫm, quả to bắt mắt, nhưng ăn chát mò, hạt lại to sều sều. Mận thì chọn đúng thứ mận Hậu, vỏ hơi xanh ngả hanh vàng, trông cũng hơi kém mã một chút so với mận Tam Hoa, ăn giòn khau kháu, ăn miết không chán.
Và đào Lạng Sơn, dưa hấu Nga Sơn, hồng xiêm Xuân Đỉnh, dứa mật Phú Thọ... ngoài chợ có thứ gì, mẹ già sẽ cố mua cho đủ, mỗi thức một chút thôi. Đặc biệt, phải nhớ món lá diễn để sáng sớm mùng 5, đứa nào đứa nấy tự nhuộm móng tay đỏ loè, nom rất ngộ.
Ngày xưa, vào dịp Tết Đoan ngọ này, các nhà có con trai đã dạm ngõ hay ăn hỏi con gái nhà người ta, thường đem biếu nhà gái đôi vịt, hay đôi ngỗng, có khi là đôi ngan cùng chai rượu trắng nút lá chuối khô với chùm vải chín. Gọi là "đi sêu". Hay thế chứ.
Hoa quả rửa còn bóng nước, rượu nếp đơm thơm rựng. Sáng sớm, thắp hương xong là cả nhà ăn thoả thích. Thằng cu con tham quá, ăn cả bát cơm rượu đầy, mặt mũi đỏ lừ, miệng nói líu ríu, khiến cả nhà cười như nắc nẻ.
Mà lạ. Cứ vào đúng ngày này, hễ ăn bao nhiêu thứ hoa quả vào bụng cũng chẳng có sao. Chắc rượu nếp xưa nay vẫn vốn có tính tẩy giun nhẹ hay sao ấy. Mà có cái lạ nữa, là những con rắn vào ngày này tự nhiên chả dữ rằn như ngày thường. Bởi thế tục ngữ mới có câu: Len lét như rắn mồng năm. Hay thật đấy.
Non trưa, ông bố xem lại đĩa tiết canh vịt, thấy đông đặc, tự khen mình tài ba, lờ luôn ánh mắt nguýt dài của bà mẹ sành sỏi. Mà ô kìa, mùi canh măng dưới bếp đã bốc lên thơm lừng, bé em mau dọn mâm bát đi thôi.
Trong lúc khề khà đưa cay với đôi chân vịt, ông bố mới kể cho lũ con sự tích Tết Đoan Ngọ mồng năm tháng Năm âm lịch. Nghe nói là có nguồn gốc tự bên Tàu. Người Trung Hoa làm Tết này để nhớ ngày nhà thơ yêu nước Khuất Nguyên nước Sở thời Xuân Thu đã tự trẫm trên con sông Mịch La để giữ trọn khí tiết.
Nhưng người Việt mình ăn Tết Mùng 5 tháng Năm cũng từ bao đời. Chỉ cần nhớ ấy là ngày Tết giết sâu bọ. Đồ cúng chủ yếu là hoa quả và cơm rượu nếp. Còn tại sao lại gọi là ngày Tết giết sâu bọ, có lẽ bởi ông cha mình chọn ngày này để tẩy giun sán cho cả gia đình cũng nên.
Bà vợ vừa nghe câu chuyện cũ, vừa nguýt dài ông chồng: “Thôi ông uống rượu vừa chứ, tết này là tết cơm rượu nếp, ai cho ông đánh rượu trắng tỳ tỳ, mau sẻ tiết canh cho cả nhà cùng ăn với, khéo đang vữa hết kia kìa”.
Ông bố giật mình, nghiêng vội đĩa tiết canh trên mâm.
- Vữa là vữa thế nào, chả đem lạt xâu mà xách như xách bánh đúc đây này.
- Vâng, chả có phải tôi chế nước mắm vừa vặn thì có ối mà đông đặc như thế? Các con đâu, vào mẹ chan bún măng cho nào. Ăn nhanh đi. Tý nữa đúng 12 giờ trưa là ra sân đợi chị Trưởng nhỏ chanh vào mắt cho mắt sáng quanh năm nhớ.
Vũ Thị Tuyết Nhung
***
Đặng Phương Mai: Tết Đoan Ngọ – Tết Đoan Dương
Ở Việt Nam, Tết Đoan Ngọ quan trọng chỉ đứng sau Tết Nguyên Đán, vì thế mới có câu "Mùng 5 ngày Tết". Theo văn hóa phương Đông, ngày Tết Đoan Ngọ này khoảng cách từ mặt trời đến trái đất là gần nhất. Vì thế, khí dương cực thịnh, đỉnh điểm mạnh nhất là giờ Ngọ (từ 11h đến 13h) nên còn gọi là tiết Đoan Dương. Con người và vạn vật hấp thụ được khí dương. Biết cách thì sẽ bồi dưỡng được cơ thể, nâng cao được thể chất, tinh thần; làm phong phú thêm đời sống văn hóa tâm linh.
Đông y cho rằng vào ngày này, nhằm giờ Ngọ mà thu hái thuốc nam thì sẽ rất tốt vì lúc đó cây thuốc đã hấp được vượng khí cực dương để cho chất thuốc tự nhiên tốt nhất.
Dân gian cho rằng vào lúc chính Ngọ ra khảo cây xin bói quả thì sang năm cây sẽ ra trái trĩu trịt.
Tục giết sâu bọ thực hiện sáng sớm Mồng 5. Sau khi thắp hương gia tiên và dâng lễ ở đình đền cảm tạ trời đất, các nhà ăn cái rượu khi mờ sáng để trừ giun sán...
Các tập tục:
- Tục biếu tặng quà
- Tục khảo cây
- Tục đổ bệnh cho cây
- Tục xâu lỗ tai
- Tục nhuộm móng tay
- Tục hái thuốc
- Tục làm bánh tro.
- Tục bôi rượu hùng hoàng lên ngực và thóp thở trẻ em...
Ngày nay các tục trong tết Đoan Ngọ này mai một nhiều, còn rất ít địa phương và gia đình lưu giữ được. Tuy nhiên nhiều địa phương vẫn còn giữ tục hái đủ 12 loại lá cây để sắc uống trong ngày và những ngày tiếp theo để trị rôm sảy, sẩn ngứa, an thần, mát gan, lợi tiểu: Bồ công anh, ngải cứu, cà gai, kim ngân, lá vối, cây vòi voi, mã đề, lá dâu, dây tầm bốp, dây lạc tiên.
Đặng Phương Mai
***
Trần Ngọc Đông: Tục nhuộm móng tay Tết Đoan Ngọ.
Hôm trước đọc lại bài của anh Nguyễn Khánh Hùng, người cùng làng về tục nhuộm móng tay ngày Tết Đoan Ngọ hay Tết giết sâu bọ Mùng 5 tháng 5, chợt thấy một phần tuổi thơ mình trong đó:
"Hồi bé, hầu như năm nào chúng tôi cũng được nhuộm móng tay đấy nhé, vào dịp Tết Đoan Ngọ hay còn gọi là ngày giết sâu bọ, còn được ăn rượu nếp, hoa quả…
Hồi trước, ngay cả người lớn cũng chẳng son phấn, sơn móng chân, móng tay bao giờ, đừng nói là trẻ con. Được manh áo manh quần lành lặn là tốt lắm rồi. Nên Mùng 5 tháng 5 là dịp duy nhất trong năm trẻ con được làm điệu, giàu hay nghèo gì cũng có được bộ móng tay đỏ hồng. Ngay cả tôi là con trai mà cũng khoái nhuộm móng tay, chỉ đến khi lớn đùng rồi mới không chịu nhuộm nữa.
Với trẻ con, nhuộm móng là để cho đẹp, cho xinh, nhưng với các cụ, đó lại là cách để trừ tà ma, giữ gìn sức khỏe cho trẻ. Vào đêm Mùng 4, mẹ giã lá móng tay xin bên hàng xóm, đắp lên những móng tay, móng chân của các con, bọc ngoài bằng lá tầm vông hay lá mướp, buộc lại, để qua đêm. Mẹ dặn các con phải cố gắng giữ nguyên như vậy đến sáng, nếu làm tuột ra mất thì ngón tay vẫn trắng nguyên.
Vì thế, 3 anh em nằm yên không dám cựa, vừa thấp thỏm hồi hộp vừa vui mừng, hưng phấn. Đứa nào cũng chỉ muốn mở ra xem cái móng nó đổi màu ra sao, nhưng mẹ bảo làm thế móng sẽ không hồng, và nếu đứa nào không ngủ thì móng cũng sẽ trắng. Vì thế, căng thẳng một lúc, tất cả đều ngủ tít.

Các cụ bảo chỉ vào dịp tết Đoan Ngọ thì nhuộm móng bằng cây móng tay mới hiệu nghiệm, ngày thường nhuộm không đỏ đâu. Tôi không thể biết được điều đó có đúng không, vì cũng chưa ai thử nhuộm móng tay trong ngày thường bao giờ. Từ lâu, ngay cả người ở quê cũng không còn tục nhuộm móng tay ngày 5.5 âm lịch nữa. Thậm chí còn không mấy người biết rằng cái cây ấy lại có công dụng như vậy. Còn ở thành phố, người ta có thể sơn móng đủ màu mà chả cần đợi ngày nào, chỉ duy nhất với mục đích làm đẹp."
Trần Ngọc Đông
***
Hoàng Thị Ánh Phượng: Tết Đoan Ngọ trong cung đình triều Nguyễn diễn ra như thế nào?
Tồn tại từ lâu trong văn hóa dân gian của một số nước Á Đông, Tết Đoan Ngọ (Tết Đoan Dương) diễn ra vào ngày Mùng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm, cũng là một trong những Tết quan trọng trong sinh hoạt văn hóa của người Việt Nam.
Về nguồn gốc của Tết này, ngoài sự tích Khuất Nguyên của Trung Quốc thì ở mỗi quốc gia đều có cách giải thích khác nhau, nhưng điểm chung là gắn liền với sự tuần hoàn của thời tiết trong năm. Vì Đoan Ngọ là bắt đầu giữa trưa (Đoan: mở đầu, Ngọ: giữa trưa); còn Dương là mặt trời, là khí dương, Đoan Dương có nghĩa là bắt đầu khí dương đang thịnh, như vậy, ngày Đoan Ngọ là cột mốc quan trọng của chu kỳ tuần hoàn thời tiết trong năm, là lúc mặt trời bắt đầu ngắn nhất, con người ở gần trời đất nhất. Ở Việt Nam, Tết Đoan Ngọ còn gọi là Tết diệt sâu bọ để tưởng nhớ đến việc ông lão Đôi Truân giúp dân chúng trị sâu bọ phá hoại mùa màng.
Dưới triều Nguyễn, tiết Đoan Dương cùng với Nguyên Đán, Vạn Thọ là ba tiết lớn nhất trong năm. Vì vậy, các vua sẽ ấn định thời gian nghỉ Tết và những nghi lễ cần thực hiện.
Tùy theo tính chất công việc, thời gian nghỉ Tết Đoan Ngọ đối với các nha, sở sẽ được quy định khác nhau. Mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 67, mặt khắc 5, cho biết vào thời vua Minh Mệnh thì trước Tết Đoan Dương một ngày, sắc cho những công tác thổ mộc ở Kinh nghỉ việc 2 ngày (Mùng 4 và Mùng 5); những công sở Nội tạo, Nội vụ, Vũ khố nghỉ việc 1 ngày (Mùng 5). Còn dưới thời vua Tự Đức thì các sở thợ ở Kinh chỉ được nghỉ duy nhất một ngày là Mùng 5.

Bản dập mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 67, mặt khắc 5.
Các nghi lễ thực hiện ở trong Kinh, ngoài thành, dinh, trấn cũng được quy định cụ thể với các mức kinh phí khác nhau. Năm 1805, vua Gia Long ban hành quy định về việc tổ chức các ngày lễ trong năm ở các thành, dinh, trấn như sau: Ở Miếu cũ Gia Định, 2 lễ Nguyên Đán và Đoan Dương mỗi năm chi tiền hơn 48 quan. Ở Gia Định và Bắc Thành, lễ duyệt binh đầu năm đều được chi tiền 100 quan; ở Hành cung 3 lễ là Nguyên Đán, Vạn Thọ, Đoan Dương, mỗi lễ, mỗi thành đều chi tiền hơn 125 quan, các dinh, trấn thì đều chi tiền hơn 26 quan; duy 6 ngoại trấn ở Bắc Thành thì đều chi tiền 20 quan; lễ Tạ trường thì đều chi tiền hơn 12 quan.

Bản dập mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 27, mặt khắc 3.
Các loại vật phẩm dùng để cúng cho ngày Tết Đoan Ngọ là vật phẩm từ các địa phương dâng tiến.
Trong dịp Tết này, vua còn cho treo cờ ở kỳ đài. Vua Minh Mạng cho định lệ treo cờ ở kỳ đài. Ở Kinh thành, vào các tiết Thánh Thọ, Vạn Thọ, Nguyên Đán, Đoan Dương cùng ngày Mùng 1, ngày Rằm lúc đại giá ra vào, đều treo cờ lớn bằng trừu lông sắc vàng; ngày thường thì treo cờ nhỏ bằng vải vàng. Nếu gặp ngày mưa gió to cùng ngày kỵ thì miễn treo. Các thành, dinh, trấn, đạo, phủ, huyện, các đài Trấn Hải, Điện Hải, Định Hải, gặp các tiết lớn cùng khi xa giá đi tuần đến, đều treo cờ lớn bằng trừu nam sắc vàng. Và cho tấu các bản nhạc để tế ở các miếu, khi rước thần thì tấu bài Hàm hòa, tuần rượu đầu (sơ hiến) tấu bài Thọ hòa (sau đổi làm Tường hòa), tuần rượu thứ hai (á hiến) tấu bài Dự hòa, tuần rượu sau cùng (chung hiến) tấu bài Ninh hòa, từ tạ thần thì tấu bài An hòa, lễ xong thì tấu bài Ung hòa, được dùng trong tiết Nguyên đán, Đoan Dương (1).
Các nghi thức của Tết Đoan Ngọ trong hoàng cung được thực hiện nghiêm trang và chỉnh chu, các vua ngự mũ cửu long, áo hoàng bào, đai ngọc cúng ở Thái Miếu hoặc Thế Miếu, rồi sau đó thay thường phục đến chầu cung Từ Thọ làm lễ để tỏ lòng thành của một người con. Ngay trong ngày chính tiết, ở đại điện Thái Hòa, hoàng thân và trăm quan đứng ở sân điện dâng biểu chúc mừng; các quan địa phương ở ngoài đều theo ban đứng chầu ở hành cung. Tuy nhiên vào ngày Tết Đoan Dương năm 1841, vì quốc tang nên vua Thiệu trị cho bãi miễn việc dâng biểu mừng, bắn súng và đứng chầu theo ban.
Tết Đoan Dương năm 1846, vua Thiệu Trị cùng các quan đến chầu ở cung Từ Thọ. Khi làm lễ xong, vua ngự điện Thái Hòa, nhận lễ mừng, ban cho hoàng tử, hoàng tôn, hoàng thân, văn từ chánh ngũ phẩm, võ từ chánh tứ phẩm trở lên, ăn yến ở điện Cần Chính và hành lang 2 bên tả hữu. Con các thân phiên công đã phong đình hầu cùng là văn tòng ngũ phẩm, võ tòng tứ phẩm, cùng các viên được điểm vào chầu và các viên giải nộp vật hạng; hoặc diễn tập ở Kinh đều được dự. Sứ thần nước ngoài, thổ ty các hạt cũng cho ăn yến ở viện Đãi lậu bên tả. Gia thưởng cho sứ thần 2 nước Thủy xá, Hỏa xá là Sơn Thí, Kiệu Mộc, và thổ ty Trấn Tây là bọn Mộc Tức: các thứ chè, hoa quả, quạt, khăn tay.

Bản dập mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ tam kỷ”, quyển 57, mặt khắc 2.
Từ công tác chuẩn bị, đến việc định lệ các nghi thức và cách thức tổ chức trong ngày lễ chính được ghi chép trong tài liệu Mộc bản, chúng ta thấy sự quan tâm đặc biệt của các vua triều Nguyễn dành cho ngày tết Đoan Ngọ. Thông qua đó, có thể hiểu được phần nào ý nghĩa của ngày tết này trong tâm thức của người Việt Nam.
Chú thích:
1.. Bản dịch sách “Đại Nam thực lục” của Viện Khoa học xã hội, Viện Sử học, NXB Giáo dục, 2007 và Mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 14.
……………
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ sơ H21/28, Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;
2. Hồ sơ H22/68, Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;
3. Hồ sơ H23/58, Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
Hoàng Thị Ánh Phượng (Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)