I- Tiếng Láy trong Việt Ngữ
Tiếng Láy gồm một từ ngữ gốc và một từ tố lặp lại theo âm điệu, vần điệu nhịp nhàng, uyển chuyển với từ gốc. Tôi gọi từ tố Láy với từ gốc là thành tố Láy (TTL), ví dụ Liếm Láp thì Láp là TTL của Liếm.
Đa số các nhà ngữ học Việt Nam cho rằng ngoài một số nhỏ TTL có nghĩa còn hầu hết TTL vô nghĩa như Mình Mẩy, Liếm Láp, Bụi Bặm…. thì TTL Mẩy, Láp, Bặm không có nghĩa.
Tôi khám phá ra rằng các thành tố Láy (TTL) hầu như đều có nghĩa. Chúng ta cho là vô nghĩa vì chúng ta không biết nghĩa đó thôi. Nói một cách tổng quát giản dị cho dễ hiểu, thì TTL trong tiếng Việt dù dưới dạng nào đi nữa nó đều phát xuất ở từ gốc, từ mẹ của nó láy sinh ra. Như thế nó mang những di tính của từ gốc, từ mẹ không những âm, vần mà kể cả nghĩa ngữ. Nghĩa của TTL có thể còn giữ nguyên nghĩa ngữ của từ mẹ (rõ nhất là dạng Láy giữ nguyên dạng như ào ào) hay vì đã Láy, đã lái, đã lái đi thì nghĩa cũng sẽ lái đi, đã thay đổi… Nói gọn lại, từ Láy trong tiếng Việt láy cả âm đọc lẫn ý nghĩa.
Những TTL này
- Có thể là những từ Cổ Việt đã biến thể đi, đã mai một đi hay đã chôn vùi ở đâu đó nên chúng ta không biết nghĩa, ví dụ từ Láy kiêng khem có TTL Khem là tiếng biến âm kh=h như khì khì=hì hì, ta có khem = hem hèm.
- Có thể chúng là những từ còn hiện diện ở một ngôn ngữ nào đó của nhân loại nhất là những ngôn ngữ có liên hệ với Việt ngữ. Sự liên hệ này có thể ruột thịt hay vay mượn, hay tiếp xúc. TTL của Việt ngữ là một từ trong ngôn ngữ khác.
Ví dụ từ Láy Thật Thà, có TTL thà cũng có nghĩa ngay thẳng chính là Phạn ngữ ‘shâ’ to stand, đứng, thẳng. Rõ như ban ngày Thà = shâ
Như đã nói, mỗi tộc ngôn ngữ phát âm theo một âm khác nhau, theo một nguyên âm khác nhau. Ví dụ Việt ngữphát âm ời như cổ ngữ Việt blời (trời) Pháp ngữ phát âm theo ơ như bleu (màu trời) Và Anh ngữ phát âm theo u như blue (màu trời). U, ơ, ơi, ời là những biến âm của nhau như u, ơ, ù ơi. Blời, bleu, blue cũng có cùng gốc trời và cũng có thể coi như là một hình thức tiếng Láy của nhau như blue--- bleu giống như mù---mờ của Việt ngữ.
Để soi sáng hiện tượng tiếng Láy trong Việt ngữ xin đưa ra một vài ví dụ:
Việt và Việt
Tối thui
TTL thui có nghĩa là tối, đen. Với h câm, thui = tui, túi, tối. Thui cũng có nghĩa là đen như đen thủi, đen thui. Phỉ thui là đuổi cái đen đi. Thui bò, thui heo là nướng cháy cho đen. Ta thấy rất rõ thui láy âm với tui, tối và có cùng nghĩa là một tiếng Láy
Đen đủi
TTL đủi = thủi, thui là đen,
Theo quy luật biến âm th = đ như thủng thỉnh = đủng đỉnh, và theo đ = t, đủi = túi, tối. Đủi biến âm với đui là mù cũng hàm nghĩa tối
Chút chít
TTL chít có nghĩa là nhỏ, chót như người cháu nhỏ nhất, chót nhất gọi là chít: cháu chắt chút chít.
Chút là nhỏ, ít. chút biến âm với chót. Với ch câm, chút chít = út ít
Hỏi han
TTL han là tiếng cổ Việt có nghĩa là hỏi.
Gặp nhau hớn hở, han chào (nguyễn Du, Kiều)
Việt và Mường
Tiếng Việt Cổ và Mường ruột thịt với nhau
Lo lắng
TTL lắng chính là Mường ngữ lắng có nghĩa là lo, nhớ như thấy qua mấy câu thơ sau:
Nên con nghĩ mà đau quặn
Lắng mà đau quài (Hoàng Anh Tuấn tập II, tr 128)
Hoặc
Trời mưa đừng nhớ lặng
Trời nắng đừng thương
Lặng nguyên văn là lắng có nghĩa là lo, nhớ (tập II tr 28)
Rừng rú
TTL Rú, tiếng Mường ở Thanh Hóa là rừng, nhưng ở Nghệ An rú là đồi non (tập I tr 126) Cũng nên biết Anh ngữ jungle (rừng) ruột thit với Việt ngữ rừng
Ngứa ngáy
TTL ngáy là tiếng Mường Ngá (ngứa): vốn Ngá là (khoai) môn ngứa
Việt và Tày - Thái Thái lan
Chim chóc
TTL chóc là chim. Tầy -- Thái ngữ chốc = chim. Với h câm chóc = cóc = cọc. Thái Lan ngữ nok = chim.
Nhỏ nhoi
TTL nhoi là Thái ngữ noi = nhỏ (Bình-nguyên Lộc, Lột Trần Việt ngữ , tr.36). Noi cũng có nghĩa là nhỏ như thấy trong Việt ngữ con nít, con noi, với n câm, nít noi = ít oi, ít ỏi
Xanh xao
TTL xao Chính là Thái Lan ngữ kheeo = xanh (Bình-nguyên Lộc phiên âm là sauu
Đẹp đẽ
TTL đẽ Chính là Thái ngữ dee, nice (xinh đẹp)
Lỗ rỗ
TTL rỗ có nghĩa là lỗ như mặt rỗ như tổ ong bầu. Cái rỗ là vật đan bằng tre có lỗ lớn. Rỗ ruột thịt với Thái Lan rô, có nghĩa là lỗ.
Việt và Kampuchia ngữ
Tiếng Khmer thuộc họ Nam Á, chi Mon-Khmer cùng với Việt ngữ. Chữ viết thuộc dòng chữ Phạn Sanskrit, ngôn ngữ vay mượn nhiều chữ Phạn.
Đất đai
TTL đai liên hệ với Kampuchia ngữ day, có nghĩa là đất
Khờ khạo
TTL khạo liên hệ với Kamphuchia ngữ klao,chaot có nghĩa là stupid, khờ ngốc
Hô hào
TTL hào Chính là Khmer ngữ hao (call). Hô hào là kêu gọi, hô là gọi lớn như hô to, hô lớn. Hô biến âm với hò là gọi to như hò đò sang sông.
Việt và Hán Việt
Bầu bì
TTL bì Chính là Việt ngữ bị (bọc có quai, túi có quai). Hán Việt bì là bao, túi da (cân trừ bì là cân trừ bao) cùng nghĩa với bầu.
Cà kê
TTL kê là Hán Việt. Kê là gà. Theo c = g cà = gà thì Mường ngữ kha (gà) với h câm biến kha = ka = gà = cà
Mênh mang
TTL mang là Hán Việt có nghĩa là lớn, rộng, xa xăm: mang mang
Bạc phếch
TTL phếch = bệch, biến âm của Hán Việt bạch có nghĩa là trắng
Theo ph = b như phừng phừng= bừng bừng
Việt và Chi Ngôn ngữ Mã Lai
Mất mát
TTL mát Chính là Mã -- Nam Dương ngữ mati, có nghĩa là chết
Té de
Đi cầu té ra nước. Té, te, tè liên hệ tới nước (té nước).
TTL de cũng là nước. De chính là Mã-Nam Dương ngữ ayer, có nghĩa là nước mía, de là mía nấu nước uống.
Rừng rậm
TTL rậm liên hệ với Mã ngữ râm, có nghĩa là rừng
Việt và Altaic ngữ
Nhật ngữ từng được xếp vào Altaic ngữ nhưng trong Nhật ngữ có rất nhiều Hán Ngữ và khá nhiều ngôn ngữ của Nam Đảo, Đa đảo ngữ (chỉ Mã Lai ngữ)
Xinh xắn
TTL xắn là Nhật ngữ shan, có nghĩa là xinh (Bình-nguyên Lộc, Lột Trần Việt ngữ, hình bìa)
Cây cối
TTL cối là cây. Mường ngữ coi, cơi là loại cây nhỏ, mềm, dễ gãy:
Có súng bằng cây nứa
Có giáo bằng cây cơi (Trương Sỹ Hùng, t.I, tr 805)
Cây cối = cây con (Trần Ngọc Ninh, Tuyết xưa). Cối là loại cây có giống cái vì cối còn nghĩa là cái cối làm bằng khúc thân cây khoét rỗng biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ. Cối biến âm với củi (cây khô để đốt) với cổ ngữ Nhật kuy, ko và hiện kim ki, có nghĩa là cây. Việt ngữ có từ đôi kép điệp nghĩa kì kèo nghĩa là kì = kèo. Kèo là cái cọc nhỏ, Nhật ngữ hiện kim ki, kì là cây
Múa may
TTL may chính là Nhật ngữ theo Bình-nguyên Lộc mai là múa (tr.34)
Việt và Ấn-Âu ngữ
1/ - Việt và Anh Ngữ
Liếm láp
Ví dụ Mẹ mắng con: cái miệng mày liếm láp cả ngày.
TTL láp chính là Anh Ngữ to lap nghĩa là liếm
Lớn lao
TTL lao chính là Anh ngữ loud có nghĩa là lớn, to: loud speaker là máy phóng thanh
Mù mịt, mờ mịt
TTL mịt chính là Anh Ngữ mist có nghĩa là sa mù
2/ - Việt và Pháp ngữ
Béo bở
TTL bở ở đây không phải là bở có nghĩa là dễ rời ra, mà chính là Pháp ngữ beurre (bơ). Bơ là một chất béo nên láy với béo. Bơ chính là Việt ngữ.
Bồ cũng có nghĩa là béo như thấy trong từ đôi Bồ hòn, Bồ hôi, Bồ hóng, Bồ kết… Theo b = m, ta có bồ hôi = mồ hôi, bồ hóng = mồ hóng… mồ chính là mỡ. Bồ hòn = hòn bơ, hòn mỡ, quả bơ, quả mỡ, thứ quả dùng làm xà phòng.
Pháp ngữ gọi cây bồ hòn là savonier.
Bồ hôi = mồ hôi do tuyến nhờn như dầu mỡ ở da tiết ra, (có người có mồ hôi dầu) Chính là Bồ hôi, mồ hôi, bồ hóng, mồ hóng là chất như dầu đen do khói đọng lại ; bồ kết là quả kết bơ, mỡ dầu dùng gợi đầu
Tắm táp
TTL táp chính là Anh Ngữ tap (có nghĩa là vòi nước) liên hệ với tub (có nghĩa là bồn tắm)
Mỏng manh
TTL manh chính là Pháp ngữ mince có nghĩa là mỏng (mince lame lưỡi dao cạo)
Lỏng le lỏng lét
TTL le là cổ ngữ Việt có nghĩa là nước như chim le le là chim nước; chua lè là chua chảy nước dãi. Lechính là Pháp ngữ lait có nghĩa là sữa.
TTL lét chính là Tây Ban Nha ngữ leche có nghĩa là sữa
3/ - Việt và Tây Ban Nha ngữ và Bồ đào Nha ngữ
Mặn mà
TTL mà liên hệ với Tây ban Nha ngữ mare (có nghĩa là biển mặn), liên hệ đến biển, với muối
Mỡ màng
TTL màng ở đây không phải là lớp che, phủ, lớp màng mà chính là
- Tây ban Nha ngữ mantequilla có nghĩa là bơ,
- Bồ đào Nha ngữ manteiga có nghĩa là bơ, liên hệ Phápngữ moellle (phát âm là moan) và liên hệ Anh ngữ marrow có nghĩa là tuỷ (tuỷ có rất nhiều mỡ)
Nhí nha nhí nhảnh
Nhí là nhỏ (kép nhí). Nhí nha chính là Tây ban nha ngữ nina có nghĩa là bé gái Nhi nha nhi nhô chính là nina, nino có nghĩa là bé gái, bé trai
4/ - Việt và tiền cổ - Ấn Âu ngữ
(Proto - - Indo - European language, PIE)
Tối tăm
TTL tăm chính là gốc tái tạo tiền cổ - Ấn Âu ngữ (PIE) tem/tam/tm có nghĩa là, dark dakness, tối (bombard A.R. p 207 No 51)
Cong cỡn
TTL cỡn chính là gốc tái tạo tiền cổ - Ấn Âu ngữ (PIE) ker/ k or/ k r có nghĩa là to twist (vặn), to turn (bẻ queo), to bend (uốn cong)
Mạnh mẽ
TTL mẽ cũng có nghĩa là mạnh, non, trẻ, bé. Theo m = b thì mẽ = bé. Mẽ liên hệ với tiền cổ - Ấn Âu ngữ (PIE) mag(h) có nghĩa là young, (bé, trẻ, non)
5/ - Việt và Phạn ngữ
Ướt át
TTL át chính là phạn ngữ ak, aka (có nghĩa là nước), và ađra (có nghĩa là ướt)
Bụi bặm, bụi bậm
TTL bặm bậm chính là phạn ngữ pâm su, pâmu có nghĩa là bụi Rõ ràng pâm= bậm
Đau đớn
TTL đớn chính là Phạn ngữ du, duna có nghĩa là suffering pain, ta thấy du là đau, dun là đớn
Việt và Á-Phi ngữ
Nói năng
TTL năng biến âm với rằng, dằng như nói rằng
Rằng nghe nổi tiếng cầm đài (Nguyễn DU Kiều)
liên hệ với tái tạo Proto-Afrio Asiatic yan-/h yen- to say nghĩa là nói
Rạng rỡ, rực rỡ
TTL rỡ có nghĩa là rõ, rạng , sáng, tỏ, đỏ
liên hệ với Ai cặp ngữ Ra Re thần mặt trời
Tối tăm
TTL tăm liên hệ với Ai cặp ngữ tms: có nghĩa hide, (che, dấu kín) hàm nghĩa tối tăm
Việt và Mỹ Châu (Amerind)
Lạnh tanh
TTL tanh liên hệ với tộc Almosan-Keresiouan, Alghic: gốc tái tạo Tiền cổ-Alongquian tahk (nghĩa là mát)
Máu me, máu mê
TTL me, mê liên hệ với tộc Macro-Tacanan ami có nghĩa là máu
(dĩ nhiên liên hệ với cả gốc Hy Lạp ema-, hemo, hema có nghĩa là máu như anemia, thiếu máu hematemesis, mửa ra máu)
Thuộc làu, thông suốt làu làu
TTL làu là biết, hiểu liên hệ với tộc Kekhi ngữ nau nghĩa là know (biết).
liên hệ với Anh ngữ know
Việt và Ainu ngữ
Chậm rì
TTL Rì liên hệ với Ainu ngữ ari nghĩa là (slow, late)
Sưng húp
TTL húp với Ainu ngữ hup (sweelling)
Chậm rì và sưng húp có thể coi là hai từ ghép (xem dưới)
Se sắt
Việt ngữ se là khô, hanh.
TTL sắt liên hệ với Ainu ngữ sat (dry, arid, dried) và với Pháp ngữ sec, khô
Việt và Úc Châu ngữ
Bù lu bù loa
TTL lu, loa liên hệ với Việt ngữ lu trong bù lu bù loa
liên hệ với Úc Châu ngữ lu-n/ yu-n (sweep khóc),
lu liên hệ với lũ lụt (liên hệ với nước),lóc (khóc lóc).
Yu liên hệ với dú, rú (khóc rú lên)
Báng bổ
TTL bổ có nghĩa là búa,
liên hệ với Việt ngữ bổ (đánh giết bằng búa)
với báng (búc, giết bằng vật nhọn)
liên hệ với bu-m hay bo-m (hit, đánh; kill, giết)
Mần mà mần mò
TTL mà, mò liên hệ với gốc động từ ma-, ma-n (to do, make)
……>: mần của tộc Mangarayi
Đứng đắn
TTL đắn liên hệ với DHa-n (to stand) đứng
Tóm lại TTL trong tiếng láy của Việt ngữ đều có nghĩa, có thể còn giữ nguyên nghĩa của từ gốc, từ mẹ mà nó láy hay đã láy đi, lai đi, lái đi. TTL có thể là một từ cổ Việt mà ngày nay ta còn nhận ra và biết nghĩa hay còn bị chôn vùi ở đâu đó hoặc là một từ của một ngôn ngữ loài người nhất là ở những chi ngôn ngữ ruột thịt với Việt ngữ. Điểm này đã được Bùi đức Tịnh xác nhận Việt ngữ có hầu hết tất cả âm vận của ngôn ngữ loài người. (tr188)
Qua sự kiện TTL có mặt trong tất cả ngôn ngữ loài người, cho thấy tiếng Việt là một ngôn ngữ tối cổ hay liên hệ với nhũng ngôn ngữ tối cổ, nằm ngay gốc của Cây ngôn ngữ loài người. Ta có thể dùng từ láy trong công cuộc truy tìm nguồn gốc ngôn ngữ loài người (xem Việt ngữ và nguồn gốc Ngôn Ngữ Loài Người).
Tôi dựa vào khám phá này để mò tìm nguồn gốc nghĩa ngữ của cổ ngữ Việt và ngôn ngữ loài người để học ngôn ngữ loài người một cách cặn kẽ, dễ hiểu vả dễ nhớ, dùng Việt ngữ để giải thích ngôn ngữ loài người và ngược lại.
II- Tiếng Ghép trong Việt ngữ
Hiện nay tiếng láy và tiếng ghép thường được hiểu lẫn lộn với nhau bởi vì có phần chồng lên nhau (overlapping) của hai loại tiếng này… Tuy nhiên cần phải vạch ra những tiêu chuẩn để phân biệt rõ ràng ra. Từ láy dĩ nhiên cũng là một loại từ ghép nhưng đặc biệt. Từ láy là từ ghép có cả âm đọc và nghĩa đều láy nên âm và nghĩa giống nhau hay gần cận nhau. Từ ghép có nghĩa giống nhau hay gần giống nhau nhưng âm đọc hoàn toàn khác nhau. Để phân biệt tôi gọi từ ghép có âm đọc khác nhau là từ ghép kết hợp. Xin đưa ra một vài từ ghép kết hợp dị âm nhưng đồng nghĩa hay điệp ngữ
Chợ búa
Việt ngữ búa trong từ ghép điệp nghĩa chợ búa có nghĩa là liên hệ với chợ. Người Hà Tĩnh gọi chợ nhỏ là búa. Búa chính là Phạn ngữ pur, pura, chỗ ở, miền, thành phố như Singapura hay Singapore, Thành phố Sư tử.
Pur -, búa liên hệ với buôn, bản, phủ (huyện). Hán Việt phủ có một nghĩa là búa (phố). Chợ búa là chợ phố. Pur - đẻ ra burg, bourg trong Ấn Âu ngữ như St Peterburg, Strassburg, Luxemburg…
Búa, bản, buôn liên hệ với Maya, Trung Mỹ pan, Bản, buôn, chỗ ở, thành phố, như Mayapán, Co pán.
Theo biến âm b=ch như bẻ, bổ=chẻ, ta có pur-, búa=chùa=church. Chùa, nhà thờ church là nơi thờ tự cũng là nơi tụ họp.
Tre pheo
Pheo là một loại tre
Nóng sốt
Sốt là nóng như cơm nóng canh sốt, bị sốt (fever) là bị nóng, lên nhiệt độ. Sốt liên hệ đến với Pháp ngữ chaudnóng
Gói ghém
Ghém tiếng cổ Việt có nghĩa là gói. Ăn ghém là ăn gói, ăn gỏi.
Ăn gỏi nguyên thủy là ăn thịt cá sống gói với rau sống, rau thơm.
Ăn ghém thấy rõ trong câu ca dao:
Bao giờ rau diếp làm đình
Gỗ lim ăn ghém thì mình lấy ta
Mình mẩy
TTL mẩy có nghĩa là mình như thấy qua câu đầu chấy, mẩy rận rằng
đầu đầy chấy,mình đầy rận
Gà qué
Qué là gà như thấy qua từ ghép điệp ngữ gà qué. Qué liên hệ với que, quẻ (que thăm), kẻ (cái kèo nhỏ) ke (bộ phận sinh dục nam (Alexandre Rhodes) ké (gà, trói thúc ké là trói ghịt cánh gà), Hán Việt kê (gà). Con gà (sống) biểu tượng cho đực, cho nọc. Nọc là cọc là que, là ke, là cái giống phái nam. Vì thế gà sống là con que, con cọc biểu tượng cho Cái giống phái nam. Điều này thấy rõ qua Anh Ngữ cok, gà sống, bộ phận sinh dục nam. Con cock, con coq (Pháp ngữ chính là con cọc con c…
Tối om
Om, um, âm là tối liên hệ với Pháp ngữ ombre, tối.
Áp dụng t câm ta có tom=om, tom biến âm với tăm. Tăm là TTL của tối tăm và với tăm là gốc tiền cổ-Ấn –Âu đã nói ở trên.
Mạt rệp
Cổ ngữ Việt mạt là con bọ gà, bọ chét. Mạt biến âm với mọt (bọ gỗ) Thái Land ngữ mat flea, bọ chét
Gò nổng
Nổng biến âm với nống, cổ ngữ Việt có nghĩa là cái nọc.
Nổng là núi nhọn đỉnh, núi hình trụ cột, là núi dương.
Nổng, nống biến âm với đống, gò đất cao, gò đất chôn người chết
Kampuchia ngữ phnom, núi, Mã-Nam Dương gunung chính là gò nổng
Như đã nói trên, tiếng láy và tiếng ghép thường lẫn lộn với nhau bởi vì có phần chồng lên nhau (overlapping) của hai loại tiếng này, ví du như cò kè có cò là cồ là đực. Đực là nọc (heo nọc, là heo đực). Kè, kẻ là cái cọc nhỏ. Cây kè là cây thân có cành nhánh trông như cái cột, cái cọc ; kè là cái cọc đóng ở bờ nước. Ta thấy cò và kè vừa láy âm vừa là hai từ riêng rẽ vì đứng riêng ra vẫn là 2 từ cò và kè trọn vẹn. Những từ này tôi nghiêng về tiếng láy
Tôi chỉ gọi là từ ghép kết hợp điệp nghĩa khi những từ hoàn toàn khác âm nhau mà thôi
Từ ghép kết họp thường là điệp nghĩa với những từ tố cùng nghĩa hay gần nghĩa như nhau như đã thấy ở trên hoặc ít thấy hơn là hai nghĩa trái ngược nhau theo tính chất âm dương trong tiếng Việt., ví dụ ngày đêm, trăng trời, sáng tối.
Một trong những công dụng của từ ghép kết hợp là tạo ra thêm từ mới trong Việt ngữ. Sự cấu tạo thêm từ mới này có thể là lấy từ các gốc, các từ có sẵn của Việt ngữ hay vay mượn từ các ngôn ngữ khác. Từ mới được kết hợp với từ cũ đã dùng quen và biết rõ nghĩa rồi, từ mới không còn dần dần không còn xa lạ, khó hiểu và được từ cũ đi kèm bên dìu dắt đi vào dòng ngôn ngữ Việt không một chút bỡ ngỡ. Trong trường hợp vay mượn từ ngôn ngữ khác, từ mới được từ Việt đi kèm bên dần dà được Việt hóa trở thành tiếng việt
Từ ghép nhìn chung cũng hữu ích như từ láy nhưng giới hạn hơn. Ta có thể dùng từ ghép kết hợp trong công cuộc truy tìm nguồn gốc ngôn ngữ cổ ngữ Việt và ngôn ngữ loài người.
Nguồn: http://www.vanhoaviet.info/