Chính Trị Văn Học
Nếu lấy chính trị làm cột mốc cho văn học thì có thẻ chia văn học miền Nam làm hai thời kỳ: thời kỳ 1954-1963 và thời kỳ 1964-1975. Trong hai giai đoạn này, biến cố chính trị liên quan đến đất nước thì cũng liên quan đến biến cố văn học.
Thời kỳ 1954 là giai đoạn nở rộ của nhiều dòng chảy văn học. Từ Bắc vào có tới hằng trăm văn Nghệ sĩ di cư hầu hết trẻ và chưa có mấy tên tuổi, trừ Vũ Hoàng Chương.
Họ đã hình thành một trào lưu văn học mới qua tờ Sáng Tạo với Mai Thảo, Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ.
Từ phương Tây đổ về với nhiều trí thức trẻ, hầu hết từ Pháp về và khơi mào, cổ võ cho xu hướng triết học Hiện sinh cũng như thơ tự do.
Triết học trở thành thời thượng. Cả một thời. Cả giới trẻ. Nó xâm nhập vào văn chương, thi ca, tôn giáo cũng như thái độ chính trị.
Nhất là thái độ dấn thân, nhập cuộc. Với những tâm trạng, thao thức, chán chường, sự phi lý của cuộc đời. (Xin xem thêm bài “20 năm triết học Tây Phương ở miền Nam Việt Nam 1955 – 1975” cùng tác giả, Hợp Lưu, 21 Tháng Chín 2008 ).
Cũng là thơ tự do, với Thanh Tâm Tuyền, Quách Thoại tôi vẫn đứng xa mà nhìn, nhưng lại dễ cảm với dòng thơ của Nguyên Sa. Ông có viết một bài nhan đề: Cuộc hành trình tên là lục bát. Và nếu có cuộc bình chọn, tôi sẽ chọn Nguyên Sa. Này nhé:
“Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay”
(Trích Nguyên Sa, “Tương tư”)
Thêm nữa, thơ và nhạc như quyện vào nhau cùng cất cánh bay lên. Còn nhớ năm 1955, thơ Phan Lạc Tuyên dược nhạc sĩ Đan Thọ phổ thành bài hát “Tình quê hương”:
“Anh về qua xóm nhỏ. Em chờ dưới gốc dừa. Nắng chiều lên mái tóc. Tình quê hương đơn sơ.”
Nguồn: Tinh Hoa – Huế (1956)
1957, Cung Trầm Tưởng từ Paris về, hai bài thơ của ông là Mùa Thu Paris và Vô Đề (thơ trường thiên) xuất hiện trong tuyển tập Đất Đứng của nhóm Quan Điểm. Nhưng tôi vẫn tự hỏi nếu không có chỗ tựa là nhóm Sáng Tạo và thơ Phạm Duy phổ nhạc thì liệu những bài thơ của ông, như Chưa Bao Giờ Buồn Thế và Khoác Kín có được người đời biết đến nhiều hay không?
Sau này Phạm Duy phổ nhạc rất nhiều bài thơ, trong đó có thơ của Phạm Thiên Thư, của Nguyễn Tất Nhiên, của Linh Phương.
Không khí chính trị thuở 55-56 còn ngùn ngụt khí thế chống cộng. Bởi vì thế, ngoài cuốn Trăm Hoa Đua Nở của Hoàng Văn Chí với khoảng trên dưới 20 chục nhà văn nhà thơ, còn cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống. Người dân miền Nam biết thế nào là cộng sản là nhờ cuốn phim này.
Ngay tạp chí Sáng Tạo, tuy làm văn chương mà thái độ chống Cộng cũng không giấu giếm gì. Mai Thảo với Đêm Giã Từ Hà Nội, 1956. Thanh Tâm Tuyền với Bếp Lửa, 1957, Cát Lầy, 1955, v.v.
Chống cộng như một chính sách có tờ Chỉ Đạo, Văn Hữu. Với người lãnh đạo là Nguyễn Mạnh Côn, tác giả cuốn Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử.
Hội họa cũng trở thành thú thưởng ngoạn cao sang của giới trí thức thành thị.
Nói chung có một sự tắc nghẽn sáng tác tùy mức độ của mỗi nhà văn. Phần đông chỉ viết như cũ. Như cũ là một hình thức ngưng trệ rồi.

Một bài thơ lục bát | thủ bút của Nguyên Sa (1970).
Tôi có thể nói như thế này: giai đoạn này Tuổi trẻ như một giai cấp. Họ lớn lên trong chiến tranh. Trưởng thành trong chiến tranh, làm văn thơ sau mỗi trận địa. Và thơ văn của họ hầu hết là mô tả: nỗi buồn chiến tranh.
Trong phần giới thiệu thơ văn của họ, chúng ta sẽ có dịp chứng nghiệm điều đó. Và đây cũng là dòng cảm thức trổi bật nhất, hiện thực nhất về cuộc chiến này.
Họ là những nhà văn một cách nào đó phải nhập cuộc và là nhân chứng cho cuộc chiến tranh này mà trong số họ có nhiều người không còn có cái may mắn trở về.
Thơ của họ, văn của họ là hòa với mồ hôi, tiếng súng và đôi khi cả máu của họ nữa.
Ngôn ngữ họ xử dụng là thư ngôn ngữ đôi khi sống sượng, chửi thề và xưng hô mày tao với nhau. Nhiều khi thái độ là buông thả, nhậu nhẹt.
Tên tuổi những nhà văn thế hệ 64-75 là Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, v.v.
Đặc điểm là họ chỉ viết về chính mình. Về mình đây có thể hiểu là viết về những khát vọng của chính thân xác họ. Viết thế là cách dùng chữ nhẹ nhất.
Hình như, theo phân tâm học, càng không đẹp, càng viết khỏe, càng bị ám ảnh dục tính, một thứ dục tính đã được cao thượng hóa.
Hình như họ giống nhau và thi đua viết như thế.
Khiếp quá. Chỉ cần đọc nhan đề chuyện thôi đã thấy ẩm ướt rồi. Đây là chuyện năm xưa.
Sách dịch đủ loại, nhất là sách truyện (Xin xem thêm “20 năm văn học dịch Miền Nam” cùng tác giả).
Thị phần sách dịch chiếm đến 75% số sách đọc là nhiều lắm.
Đó là một hiện tượng chỉ thấy xảy ra vào những năm cuối 1960-1975.
Khước từ, chối bỏ coi như bước đi của văn học.
Khước từ trong văn chương đã đành, nhất là trong lĩnh vực thi ca, hội họa và âm nhạc.
Nó đưa đến kết quả là tính đa dạng trong văn học miền Nam không mang tính đồng phục. Nó lớn mạnh không phải vì nó họp thành trường phái giống nhau mà lớn mạnh ở chỗ khác nhau.
Sáng Tạo chết yểu cũng một phần muốn tập họp phe nhóm. Thay vì có chung một chí hướng thì nó thực sự lại tạo thành một ghetto văn học.
Như trong trường hợp TLVĐ trước đây, không ngồi cùng chung chiếu với TLVĐ là bị chế diễu, vùi dập như trong trường hợp Vũ Trọng Phụng.
Sáng Tạo sau này bước vào vết xe đổ mà TLVĐ đã để lại.
Và người phản đối mạnh mẽ nhất về tinh thần bè phái của Sáng Tạo là Nguyên Sa. Trong một bài viếtt phê bình có một không hai của Nguyên Sa: Một bông hồng cho Văn Nghệ. (Nguyên Sa, Một bông hồng cho văn nghệ, NXB Trình Bày, Sài Gòn, 1967. Bản điện tử do talawas thực hiện).
Ông chỉ trích gián tiếp nhóm Sáng Tạo với nhận định là
Trên đây là mấy nét sinh động của dòng văn học miền Nam thể hiện qua những nhà văn sẽ được giới thiệu trên DCVOnline.net
Mỗi nhà văn là một thế giới. Mai Thảo. Võ Phiến. Dương Nghiễm Mậu. Bình Nguyên Lộc. Sơn Nam, Duyên Anh, Thanh Tâm Tuyền. Nguyên Sa. (Chỉ nội thi ca thôi đã bao nhiêu dòng khác biệt. Trần Văn Nam gọi là Thơ vắt dòng).

Sách cũ miền Nam. Nguồn: OntheNet
Đó cũng là tiếng nói của những nhà văn trẻ, có thể chưa thành danh, chưa có chỗ đứng như các đàn anh, như trường hợp Trần Hoài Thư và nhóm bạn bè của ông.
Nói, theo cách của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, nhà văn không phải là những ông bình vôi, mỗi ngày vôi đóng cứng nhắc, bịt miệng cái bình vôi. Chính trong những tinh thần đó mà những nhà văn cột trụ như Mai Thảo, Võ Phiến sau này cảm thấy không còn có khả nắng thích ứng với thời cuộc nữa,
Nhiều nhà văn trẻ đã dần thay thế lớp nhà văn thời 1954, mặc dầu việc viết của họ chưa hẳn đã đạt. Nhưng tiềm năng của họ là không chối bỏ được. Nhưng ít ra, họ là nhân chứng sống cho một giai đoạn biến động trước khi miền Nam bị sụp đổ.
Vài nét phác họa chân dung văn học miên Nam ở đây để gửi tới bạn đọc những chứng từ sẽ lần lượt giới thiệu trên DCVOnline.net
Nguyễn Văn Lục