
“Văn Xuôi Tự Sự Quốc Ngữ Nam Bộ Cuối Thế Kỉ XIX Đầu Thế Kỉ XX - Những Góc Nhìn” (gọi tắt là Văn Xuôi Tự Sự Quốc Ngữ) do nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành. Sách dày 462 trang, không kể các trang bìa. Độc giả có thể nhận biết sách được in năm 2023, ghi ở trang cuối. Căn cứ vào bìa 4, đồng tác giả theo thứ tự là: Huỳnh Thị Lan Phương - Thạc sĩ văn học Việt Nam (1999), Giảng viên chính (2004) và Nguyễn Văn Nở - Tiến sĩ Ngữ văn (2008), Phó Giáo sư Ngôn ngữ học (2011), Giảng viên Cao cấp (2015). Chúng tôi gọi Nhóm Huỳnh Thị Lan Phương hoặc Nhóm tác giả để thay thế nhị vị tác giả. Đây là cuốn sách thứ 5 được ấn hành của Nhóm tác giả.
Tập sách Văn Xuôi Tự Sự Quốc Ngữ gồm 22 đề mục (trừ Lời Nói Đầu), mỗi đề mục là một mảnh vụn văn học được Nhóm tác giả khéo lồng ghép một cách có dụng ý, xoay quanh trọng tâm của chủ đề. Đó là:
1. Đặc điểm văn xuôi tự sự
2. Vai trò của chữ Quốc ngữ
3. Tính giao thời – nét đặc trưng của văn học
4. Vấn đề xác định thể loại Truyện Thầy Lazarô Phiền
5. Nghĩ về những điểm mới trong Người Bán Ngọc của Lê Hoằng Mưu
6. Cảm nhận về đoản thiên tiểu thuyết của Sơn Vương
7. Thành ngữ cải biến trong tác phẩm Sơn Vương
8-22. Các tác giả dành 15 đề mục (8-22) từ trang 171 đến trang 462 để khai thác về nhiều đề tài trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh như: Ngôn Ngữ - Người Kể Chuyện – Điểm Nhìn Trần Thuật – Phản Ánh Hiện Thực – Cảm Hứng Thế Sự - Đời Sống Văn Hóa Ở Nông Thôn – Nam Bộ Trong Buổi Đầu Giao Lưu Văn Hóa Với Phương Tây – Tìm Hiểu Văn Hóa Giao Tiếp Của Người Nam Bộ - Sự Kế Thừa Và Đổi Mới Quan Niệm Về Con Người – Cái Nhìn Của Hồ Biểu Chánh Về Người Nông Dân Nam Bộ - Thân Phận Người Nông Dân Nam Bộ - Tính Cách Người Nông Dân Nam Bộ - Ý Thức Nữ Quyền Qua Kiến Tạo Nhân Vật Nữ - Vấn Đề Du Học Và Nhân Vật Người Thanh Niên Du Học - Chị Đào, Chị Lý – Một Tiểu Thuyết Ra Đời Ở Giai Đoạn Sáng Tác Cuối Của Hồ Biểu Chánh.
* Nhận định:
Đây là quyển sách thôi thúc độc giả phải đọc, và đọc kỹ để đi đến một vài nhận định khách quan.
Ngay Lời Nói Đầu, các tác giả khẳng định: “Văn học Quốc ngữ Nam Bộ, đặc biệt là văn xuôi tự sự là bộ phận đi tiên phong trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam” (...) “Những con số tổng kết lượng tác phẩm đã xuất bản; những thể tài mà Văn Xuôi Tự Sự Quốc Ngữ Nam Bộ đã “dàn trận”; những tên tuổi nhà văn với đủ các thế hệ, nhiều thành phần, có cả nữ giới… chứng minh cho sự hùng hậu về lực lượng sáng tác, cũng như những đóng góp của họ về mặt nội dung và nghệ thuật” (tr. 7). Tập sách nầy gồm những bài viết của đồng tác giả “đã được đăng trên các tạp chí chuyên ngành, trong các kỉ yếu hội thảo khoa học trong khoảng hơn 15 năm qua. Đó có thể nói là kết quả từ quá trình giảng dạy , nghiên cứu, đặc biệt là với lòng yêu quý văn chương Nam Bộ”… Nhóm tác giả đã giới hạn “những góc nhìn” của mình qua việc “chỉ tìm hiểu, khảo sát và tập trung khai thác một số giá trị tiêu biểu từ sáng tác của các nhà văn nổi bật, trong giai đoạn này như: Nguyễn Trọng Quản, Sơn Vương, Lê Hoằng Mưu, đặc biệt là Hồ Biểu Chánh – cây bút sáng giá nhất của văn xuôi tự sự đầu thế kỉ XX” (tr. 8).
Về Đặc điểm văn xuôi tự sự, Nhóm tác giả muốn “khẳng định vị thế của văn học Nam Bộ” (...), bởi lẽ “vẫn còn đó cách nhìn thiếu khách quan, những đánh giá chưa công bằng, hợp lí về văn xuôi tự sự Quốc ngữ Nam Bộ” (tr. 9). Về “Vai trò của chữ Quốc ngữ”, tập sách khẳng định “chữ Quốc ngữ... có vai trò tích cực trong hoạt động phiên âm, dịch thuật” (tr. 54) và đóng “vai trò sáng tạo mới trong buổi bình minh của văn xuôi tự sự hiện đại ở Nam Bộ” (tr. 54). Cũng như một số nhà nghiên cứu khác, các tác giả đã đề cao “Người đầu tiên, có công lao lớn trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ là Trương Vĩnh Kí [Ký] (...). Bên cạnh ông còn có Huỳnh [Huình] Tịnh Của” (tr. 48) và đi đến kết luận: “Chữ Quốc ngữ được hình thành từ công lao các giáo sĩ phương Tây. Nhưng nó chứa đựng cái hồn của nước Việt” (tr. 63). Từ đó “phổ biến hiện tượng tồn tại song song cái cũ và cái mới trên nhiều yếu tố” (tr. 73) – tính giao thời. Bàn về vai trò bản lề của văn học, các tác giả bày tỏ mối ưu tư: “Làm sao để hội nhập mà không mất gốc, đổi mới mà không bạc tình với quá khứ?” (tr. 83).
Nơi đề mục 4, sau khi thừa nhận “Truyện thầy Lazarô Phiền là một sáng tác văn xuôi tự sự Quốc ngữ ra đời sớm nhất Việt Nam” (tr. 85), Nhóm tác giả dành 25 trang (85-109) để bàn về Vấn Đề Xác Định Thể Loại “Truyện Thầy Lazarô Phiền”. Theo đồng tác giả, “Truyện thầy Lazarô Phiền là một tác phẩm mang đặc điểm khá phức tạp” (tr. 106).... “chứa đựng trong nó bao nhiêu điều mới mẻ, từ nội dung đến hình thức nghệ thuật” (tr. 108). Không thể xếp tác phẩm vào truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết hiện đại – mặc dầu Nguyễn Trọng Quản gọi là truyện - mà nên “dành cho tác phẩm của ông một cách gọi phù hợp: truyện vừa” (tr. 109). Và cũng chính với tác phẩm nầy của nhà văn tiền phong Nguyễn Trọng Quản đã “ảnh hưởng tích cực đến các nhà tiểu thuyết Nam Bộ, tiêu biểu nhất là Hồ Biểu Chánh” (tr. 108).
Phần cốt lõi của quyển sách là bàn về tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Với 15 đề mục (8-22) chiếm hai phần ba tập sách, Nhóm tác giả dành trọn 292 trang sách (từ trang 171 đến trang 462) để khai thác rất nhiều đề tài trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, như đã dẫn. Điều nầy khiến độc giả nghĩ đến một cuốn sách biên khảo luận đề, một Luận án tốt nghiệp sau Đại học về Hồ Biểu Chánh. Huỳnh Thị Lan Phương và Nguyễn Văn Nở chắc hẳn là người mê tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh số một nên mới có hứng khởi và dành rất nhiều thời gian, công sức để hoàn thành tác phẩm này. Chúng tôi muốn biểu đồng tình với nhị vị tác giả bởi cái ghiền tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh – cũng như mê Truyện Tàu [1]. Nói theo một nhà văn Mỹ, William Faulner: “Viết lách bao gồm 99% là mồ hôi, và 1% là cảm hứng”, người viết có thể nói nguồn cảm hứng của các tác giả Văn Xuôi Tự Sự Quốc Ngữ chiếm tới 5%. Thật bất ngờ khi được biết Huỳnh Thị Lan Phương với đề tài Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ “Đặc trưng văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930”; còn Nguyễn Văn Nở với Luận án Tiến sĩ “Biểu trưng trong tục ngữ Việt Nam”, lại có “duyên nợ” với Hồ Biểu Chánh bởi nguyên quán Gò Công. Chính cái nôi Gò Công, “một vùng quê nghèo khó, với nước mặn đồng chua, lắm gò, ít được thiên nhiên ưu đãi” đã “khơi gợi cho Hồ Biểu Chánh một nguồn cảm hứng bất tận” (tr. 339).
Chúng tôi muốn lan man ghi vội những cảm xúc về các đề mục mình tâm đắc.
Trước hết ngôn ngữ, khẩu ngữ “Hồ Biểu Chánh đã làm nên một phong cách ngôn ngữ trong tiểu thuyết của mình” (tr. 172). Chẳng hạn hiện tượng rút ngắn độ mở của nguyên âm: nghĩa nhơn/ nghĩa nhân; huê viên/ hoa viên; phước/ phúc; bịnh/ bệnh; hun/ hôn; chơn/ chân; huờn (không phải hườn)/ hoàn; nưng/ nâng... (tr. 173).
Thí dụ:
“Cậu mợ làm phước cho ít đồng xu mua cơm ăn” (Khóc Thầm, tr. 67).
Những biến thể phát âm về phụ âm đầu như: mắc/ đắc; hửi/ ngửi; nhỏ mức/ nhỏ rức; nhắm nhía/ ngắm nghía; day/ quay...
Thí dụ:
“Tối ngày hửi mùi hôi dưới đường mương hoài” (Chút Phận Linh Đinh, tr. 06).
Nhiều từ ngữ quen thuộc phổ biến ở vùng đất Nam Bộ “ngồn ngộn chất sống và giàu màu sắc địa phương” như: nín khe, buồn hiu, lạ hoắc, xí được, khoái chí, mừng quýnh, cứng cát, riu ríu, lục đục, đi riết, không dè, om sòm, lật đật, coi bộ, lung lắm...
Thí dụ:
“Mợ dằn lòng nhịn thua mà coi bộ tức giận lung lắm” (Con Nhà Nghèo, tr. 155).
Nhiều từ địa phương phải dựa vào văn cảnh mới hiểu. Chẳng hạn: đụng: nam nữ lấy nhau; để vợ, để chồng: ly dị; dòm, coi: xem; trọng: khá lớn; dè: ngờ; riết: nhanh; xăng xớm: (đi) mau; trằn: giữ, níu lại...
Từ láy được vận dụng nhiều, như: láo liên, lựng khựng, lằng nhằng, tả tơi, lơn tơn, lăng xăng, nhùng nhục, xẻn lẻn, chơm bơm, xẩn bẩn...
Thí dụ:
“Anh ta mặc một cái áo đen màu nhùng nhục, một cái quần vắn lai đứt tả tơi” (Cha Con Nghĩa Nặng, tr. 05).
Bàn về “Nam Bộ trong buổi đầu giao lưu văn hóa với phương Tây”, tác giả cho rằng: Nam Bộ là vùng đất mới, là xứ thuộc địa, là nơi tiếp xúc với văn hóa phương Tây buổi đầu với nhiều “biểu hiện tiêu cực”. Con người dễ dàng bị sa ngã, hư hỏng do sự “xui khiến” của “thị dục” thấp hèn. Liệt kê những “biểu hiện tiêu cực” (cụ thể ở Sài Gòn), như: “ca quán, vũ trường, tửu điếm mọc lên san sát, phô trương vẻ lộng lẫy, hào nhoáng, lúc nào cũng sẵn sàng mời gọi, tiếp rước khách phong lưu...” (tr. 285) bằng dẫn chứng: “Trong Chợ Lớn còn nhiều chỗ kêu là “nhà xét” bày lập ra để người có tiền đến đó ăn chơi, muốn hút á phiện sẵn có mâm đèn, muốn ăn uống thì đủ thứ cao lương, muốn thưởng hoa nguyệt thì sẵn có gái xinh, muốn đánh bạc thì cũng sẵn có tay chơi” (Một Đời Tài Sắc, tr. 74).
Nơi tiếp xúc với văn hóa phương Tây buổi đầu dẫn đến nhiều hệ quả. Vấn đề du học phương Tây để bao thanh niên có cơ hội đến với chân trời mới nhằm học hỏi, tích lũy kiến thức của xã hội văn minh hiện đại ngõ hầu “mang tri thức về để thật sự phục vụ cho việc cải cách đất nước”. Nhưng “cũng không phải ai học cao, biết rộng cũng là sống tốt”. Chẳng hạn như: “Vĩnh Thái trong Khóc Thầm học giỏi, biết nhiều mà cũng lắm toan tính để có cách chiếm đoạt, bóc lột tá điền thật tinh vi” (trích dẫn tr. 287).
Ngôn ngữ Pháp đã làm thay đổi văn hóa giao tiếp của người Việt. Đó là một thứ “văn hoá nói bằng ngôn ngữ pha trộn” Tây-Việt, lai căng. Thuần trong Đoạn Tình đã nói: “Ma-phăm có nghén không đi đám cưới được, còn moa thì công việc đa đoan mệt quá...” (tr. 18).
Lối sống tự do theo phương Tây gây nên “mâu thuẫn giữa khát vọng tình yêu tự do của tuổi trẻ và lễ giáo phong kiến khắt khe, cực đoan”. Ngoài nam giới, “phụ nữ cũng được đi du học (...) Phụ nữ có học thức càng được tôn vinh”. Chẳng hạn cô Xuân Hương thi đậu bằng “Brevel Supe-rieur”(?), lập tức được “các nhựt báo đều khen ngợi lại đăng chơn dung của cô lên mặt báo cho công chúng biết” (Một Đời Tài Sắc, tr. 30).
Ngoài ra, trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, “công việc làm báo có phần tự do” (nếu không muốn nói báo chí ra đời sớm nhứt ở Nam Kỳ - NKT), “dân Nam Bộ có thói quen đọc báo”, từ người lớn tới trẻ con. Nhằm “kích hoạt thương nghiệp, thực dân Pháp thực hiện nhiều chủ trương phát triển thành thị”. Vấn đề trang phục được Hồ Biểu Chánh miêu tả tỉ mỉ. Cô Bạch Yến “bận một đồ lụa mỏng màu trứng gà, trao dồi thiệt khéo, trang điểm thiệt đẹp” (Từ Hôn, tr. 80). Thực phẩm thời hội nhập trở nên đa dạng, tiện dụng: Rambon, xúc xích, patê... Nhưng loại thực phẩm từng làm nên đặc thù văn hóa ẩm thực miệt vườn: đó là “mắm”. Chẳng hạn anh Trần Văn Sửu “phành gói cơm ra mà ăn. Một tay cầm con mắm sặc, một tay bốc cơm nguội, trên đầu trời nắng, dưới chơn lấm bùn mà anh ta ăn cơm coi bộ ngon lắm” (Cha Con Nghĩa Nặng), vân vân...
* Góp ý:
Việc mong muốn đón nhận sự “góp ý” của độc giả không thấy nhắc tới trong tập sách – điều mà đại đa số tác gia khác vẫn thường làm. Chẳng hạn, tôi có viết: “Chúng tôi thành khẩn đón nhận những sự chỉ bảo...” [2]. Nguyễn Vy Khanh cũng viết: “Chúng tôi mong tiếp tục được quí độc giả chỉ giáo những sai lầm và thiếu sót...” [3]. Nguyễn Văn Sâm đã tự biện minh cho sự “bắt giò” Hồ Văn Trung / Hồ Biểu Chánh qua việc chú giải cuốn U Tình Lục: “Bắt giò không vì ghét, vì phách lối, tự cao tự đại, mà để cùng nhau hiểu hơn những ngõ ngách của lâu đài văn hóa kỳ bí của dân tộc” [4]. Văn Xuôi Tự Sự Quốc Ngữ đã “gãi đúng chỗ ngứa” của người viết, nên thay vì chỉ “mặc áo thụng vái nhau”, chúng tôi xin có đôi lời góp ý thật thà, thẳng thắn với nhị vị tác giả. Đành rằng hễ “trung ngôn” thường gây “nghịch nhĩ”, nhưng đây là việc phải làm nên chúng tôi thành thật xin lỗi trước.
1. Về tên gọi “Nam Bộ”. Trước năm 1975, hầu hết tác giả trong Nam đều mặc nhiên gọi “miền Nam”, ngầm hiểu là “Nam Kỳ Lục tỉnh” hoặc “Lục tỉnh” hay “Nam Kỳ”. Lục tỉnh Nam Kỳ được phân chia dưới thời nhà Nguyễn, dựa vào một câu cổ ngữ: “Khoái mã gia biên vĩnh định giang hà” (phóng ngựa ra roi giữ yên non nước). Cụ thể vào năm Nhâm Thìn (1832), vua Minh Mạng bãi bỏ Gia Định Thành, đổi các trấn thành tỉnh, chia 5 trấn của Gia Định Thành trước đây thành 6 tỉnh (Lục Tỉnh) gồm: Phiên An [sau đổi Gia Định], Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Hai năm sau (Giáp Ngọ, 1834), vùng Lục tỉnh thuộc Gia Định Thành trước đây được gọi chung là Nam Kỳ. Từ đó có tên gọi là Nam Kỳ Lục Tỉnh cho tới khi toàn cõi Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp. Đương thời, người Pháp gọi Nam Kỳ Lục tỉnh bằng cái tên Basse-Cochinchine (tức vùng Cochinchine “hạ”). Chánh quyền Pháp bỏ tên Lục tỉnh nhưng còn giữ lại hai chữ Nam Kỳ, gọi là Cochinchine, phân biệt với Bắc Kỳ (Tonkin) và Trung Kỳ (Annam). Người Anh, Mỹ cũng gọi Nam Kỳ là Cochinchina. Nam Kỳ còn đươc gọi “Nam Bộ” từ năm 1945 nhưng ít phổ biến ở vùng Quốc Gia. Đến năm 1946, Pháp thành lập chánh phủ Cộng hòa tự trị Nam Kỳ, còn gọi “Nam Kỳ Quốc”. Nam Kỳ / Nam Bộ còn được gọi là Nam Phần hay Nam Việt từ 1948 tới 1975 thời Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa. Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến nay, chánh quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vẫn tiếp tục sử dụng và thống nhứt cách gọi Nam Bộ. Các tác phẩm của Lê Thị Minh: Hò Miền Nam (Phạm Văn Tươi – 1958), của Sơn Nam như: Nói Về Miền Nam (Lá Bối – 1967), Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam (Đông Phố -1973), của Nguyễn Văn Hầu qua loạt bài Hò Miền Nam (Bách Khoa các số 135 và 136, năm 1962), v.v... đã sử dụng tiếng “Miền Nam” được ngầm hiểu là “Nam Kỳ” hay “Nam Kỳ Lục Tỉnh” theo ý nghĩa đã dẫn giải trên. Chúng tôi đã xác định: “Tiếng “Miền Nam” chúng tôi dùng trong tiểu luận nầy được hiểu là vùng địa bàn từ Biên Hòa tới Hà Tiên, tức Nam Kỳ Lục Tỉnh” [5].
Nhóm Huỳnh Thị Lan Phương đã thận trọng khi viết: “Nam Bộ được hiểu là Nam kì trước đó” (tr. 271). Phải đọc kỹ mấy trăm trang sách mới thấy chi tiết nầy. Thiết nghĩ câu nầy nên được đưa vào Lời Nói Đầu để người đọc dễ nhận biết.
2. Về cách gọi “điền chủ” hay “địa chủ”.
Huình-Tịnh Paulus Của trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị đã cắt nghĩa: Địa: đất (tr. 293) [không có Địa chủ]; Điền: ruộng; Chủ điền: chủ ruộng (tr. 296) [không có Điền chủ]. Theo Hán Việt Từ Điển Giản Yếu của Đào Duy Anh, ý nghĩa hai từ nầy có chút khác nhau:
. Địa chủ (地 主): người chủ có đất;
. Điền chủ (田 主): người chủ có đất ruộng.
Trong tiếng Pháp hai từ này đều gọi chung “propriétaire foncier”.
Điền chủ là những chủ ruộng lúa để phân biệt với những loại chủ khác. Điền chủ / Chủ điền cũng được dùng khá phổ biến trong các tài liệu thành văn thời Pháp thuộc ở Nam Kỳ cũng như trong hầu hết tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Nhưng đồng tác giả lại gọi địa chủ (tr. 263, 446...) thay vì điền chủ / chủ điền.
3. Nhóm tác giả không nói rõ “Cuối Thế Kỉ XIX Đầu Thế Kỉ XX”, cụ thể là từ năm nào tới năm nào. Có nên giới hạn ở giai đoạn 1887-1930 (từ tác phẩm đầu tiên Truyện Thầy Lazarô Phiền) hay giai đoạn 1900-1930 (giai đoạn Nhóm tác giả tập trung khai thác tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh)?
Như chúng ta đều biết, Hồ Biểu Chánh với sự nghiệp văn chương đồ sộ, trong đó có tới 64 tiểu thuyết đã xuất bản (cuốn đầu tiên: “Ai Làm Được” – 1912; cuốn cuối cùng: “Chị Đào, Chị Lý” – 1957). Nhóm tác giả cho biết: “Có thể khẳng định, ở 30 năm đầu thế kỉ XX [tức1900-1930 – NKT], Hồ Biểu Chánh là người đi tiên phong trong việc hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam, theo con đường chủ nghĩa hiện thực” (tr. 270). Thật ra giai đoạn 1900-1930 chỉ có 17 cuốn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã xuất bản (1 phần 3), trong khi tập sách tham khảo nhiều cuốn trong tổng số 47 tiểu thuyết còn lại (2 phần 3) thuộc giai đoạn sau (1931-1957). Như vậy có nên đổi tựa sách thành: “Cuối Thế Kỉ XIX Tiền Bán Thế Kỉ XX”?
4. Về việc trích dẫn: Theo lẽ thường khi trích dẫn phải tôn trọng nguyên tác. Nghĩa là tên tác giả, tác phẩm, câu văn trích dẫn phải ghi đúng nguyên văn (kể cả gạch nối, chữ nghiêng và các chữ có thể hiểu sai chánh tả) – đặc biệt đối với tác phẩm biên khảo, phê bình văn học. Không nên tùy tiện sửa bất cứ chữ nào của nguyên tác. Bởi lẽ “sách báo sau sao chép lại sách báo trước và bằng cách nào đó đã từng bước gia tăng những chỗ sai lệch nhiều đến mức rối như tơ vò” (5). Tôi lấy một thí dụ. Câu thơ đầu tiên trong bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là: “Bước tới đèo Ngang bóng đã tà” [6]. Sách giáo khoa đã tùy tiện đổi chữ “đã” thành chữ “xế”. Từ đó học trò cứ học “xế”, thầy cứ tà tà dạy “xế”, sách báo về sau cứ vô tư trích dẫn “xế” từ năm nầy sang tháng khác. Chúng tôi tôn trọng nguyên tác nên đã trích nguyên văn “Cuối Thế Kỉ XIX Đầu Thế Kỉ XX”, mặc dầu luôn viết “Thế Kỷ” (Y dài).
Đồng tác giả Văn Xuôi Tự Sự Quốc Ngữ Nam Bộ đã tôn trọng nguyên tắc nầy. Tuy nhiên, một viên ngọc quý giá vẫn có chút tì vết. Đó là những hạt bụi nhỏ li ti bám vào, nên vì cái tình đồng điệu, chúng tôi muốn làm cái việc đánh bóng cho viên ngọc được sáng rỡ.
- Tên tác giả, tên các nhân vật nên ghi đúng: Trương Minh Ký/Trương Vĩnh Ký/Huình Tịnh Của (thay vì Trương Minh Kí/Trương Vĩnh Kí/Huỳnh Tịnh Của – tr. 15, 16, 49). Pellerin (thay vì Pelerin, thiếu chữ “l” – tr. 289). Khi phiên âm Brevel Supe-rieur ở trang 293 (chúng tôi chưa đọc được nguyên tác của Hồ Biểu Chánh), thiết nghĩ nên chua thêm [Brevet Supérieur]. Tương tợ như vậy, A-mia-ranh-cuộc-bê (tr. 42) nên chua thêm tiếng Pháp cho người đọc dễ hiểu, tức [Amiral Courbet]. Thật ra Amiral là đô đốc, tương đương đại tướng 5 sao; tên đầy đủ là Anatole-Amédée-Prosper-Courbet (1827-1885), một đô đốc Pháp, chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Á.
- Tên tác phẩm: Nhơn Tình Ấm Lạnh ( thay vì Nhân Tình Ấm Lạnh – tr. 256); Thông Loại Khoá Trình (không phải Thông Thoại Khóa Trình – tr. 13); Nam Kỳ Địa Phận (thay thế Nam Kì Địa Phận – tr. 13).
- Nguyên tác sai chánh tả, thiết nghĩ nên chua chữ đúng trong dấu [ ] và in chữ đậm. Một vài thí dụ: ngàn năm văn dật [vật] (tr. 246); đổi chát [chác] (tr. 256, 277); xiết cổ [siết] (tr. 363), v.v... Về vấn đề nầy, chúng tôi đã từng góp ý với Nguyễn Văn Sâm trong cuốn U Tình Lục.
Ngôn ngữ pha trộn Tây-Việt lai căng được phiên âm nên chua chữ Pháp, in đậm trong dấu [ ]: canô [canot] - xalông [salon] – quali [valise] – mù soa [mouchoir] – manda [mandat] – ram bon [jambon] - xúc xích [saucisse] - patê [pâté] (tr. 267), v.v...
5. Về ngôn ngữ, khẩu ngữ có chi tiết khá lý thú không thể bỏ qua; đó là Kiêng húy / Kỵ húy. Kiêng húy là cách viết hay đọc trại một từ nào đó do bị kiêng kỵ trong ngôn ngữ văn tự xã hội thời phong kiến Việt Nam, bắt nguồn từ thời Trần Thái Tông. Dưới thời các vua Nguyễn, Húy kỵ đã được nâng lên thành Quốc luật, làm thay đổi một phần ngôn ngữ. Chúng tôi có viết: “Người bình dân miền Nam còn sử dụng một số tiếng đọc trại đi vì kiêng húy các bậc vua, chúa, thánh, thần...” (Nguyễn Kiến Thiết: sách đã dẫn, tr.76). Dương Quảng Hàm cũng ghi nhận điều đó như sau: “Trong Nam thì tiếng hoàng đọc là huỳnh vì kiêng tên một chúa (Nguyễn Hoàng); tiếng phúc đọc là phước vì kiêng tên một chữ thuộc về chữ họ của bản triều (họ Nguyễn Phúc); tiếng hoa đọc là huê vì kiêng tên bà Hoàng quí phi về đời Thiệu Trị; tiếng hồng đọc là hường vì kiêng tên vua Tự Đức (Hồng Nhậm). Cũng vì sự kiêng tên ấy mà có nhiều chữ nho ta đọc sai chính âm đi, như chữ tông đọc là tôn, chữ thật đọc là thiệt hoặc thực, chữ thì đọc là thời, v.v...” (sách đã dẫn, tr. 200) [7]. Hồ Biểu Chánh đã sử dụng một số ngôn ngữ húy kỵ trong hầu hết tác phẩm của mình.
Tóm, Văn Xuôi Tự Sự Quốc Ngữ là một tập sách có giá trị, được soạn thảo công phu với tinh thần nghiêm cẩn khoa học của các Giảng viên Đại học – những trí thức khoa bảng Huỳnh Thị Lan Phương và Nguyễn Văn Nở. Mặc dầu còn một số “hạt sạn sót lại trong nồi cơm mới thơm lừng” (tr. 381), nhưng quyển sách nầy xứng đáng đặt trên kệ Tủ Sách Gia Đình của những ai yêu quý sách. Rất cám ơn nhị vị tác giả đã tặng sách và xin giới thiệu đến tất cả bạn đọc – đặc biệt những người chưa đọc đầy đủ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
Nguyễn Kiến Thiết - Montréal, IV.2025
─────────────
Chú thích:
[1] “Nhờ một duyên may, tôi đã đọc được mấy bộ Truyện Tàu nổi tiếng và vài cuốn tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh do ông Tám – em ông Nội tôi, mướn ở Sài Gòn đem về cho Ba tôi mượn đọc”
(Nguyễn Kiến Thiết: Những Trang Văn Đời Tôi, Văn Học Mới Hoa Kỳ xb. 2021, tr.129).
[2] Nguyễn Kiến Thiết: Tánh Cách Đặc Thù Của Ca Dao Miền Nam.
Đại học Văn Khoa Sài Gòn 1972, tr.282.
[3] Nguyễn Vy Khanh: Văn Học Quốc Ngữ Thời Đầu & Miền Nam Lục Tỉnh.
Nhân Ảnh Hoa Kỳ xb. 2021, tr.11.
[4] Nguyễn Văn Sâm (giới thiệu và chú giải): U Tình Lục. Viện Việt Học CA xb. 2014, tr.15.
[5] Nguyễn Kiến Thiết: sách đã dẫn, tr.8.
[6] Bằng Giang: Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Ký, Văn Học xb. 1994, tr.12.
[7] Dương Quảng Hàm: Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Trung Tâm Học Liệu, Bộ Quốc Gia Giáo Dục Sài Gòn tái bản, 1968 – chúng tôi không có bản in lần đầu tại Hà Nội, 1943.
Nguyễn Kiến Thiết
Nguồn: Ngôn Ngữ số 38, 1/7 2025
Tạp Chí Văn Học Nghệ Thuật