User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
thuyennhanminhthuy
 
Những Ngày Đen Tối
 
Sau 1975 đời như đứt ngang, mọi thứ đều dở dang. Tình trạng bị kìm kẹp, ép buộc, đói rách, nghèo cực kiệt quệ, ai cũng mơ trốn thoát Việt Cộng bằng đường biển, giống năm 1954 miền Bắc di cư vào Nam. Nói như câu “nếu cột điện biết di động thì cũng tìm đường mà đi ...”
 
Gia đình tôi gồm bốn người, anh đầu đã nhận việc làm ở Bạc Liêu về ngành cán bộ tài thâu năm 1973, chị tôi làm Ty Điền Địa trong Phan Rang, sau 75 trở về chỉ có ba mẹ con sống hẩm hiu. Hàng đêm đi họp tổ, nghe hoài bài ca con cá nhàm chán, chiến dịch đánh tư bản, ép buộc người đi kinh tế mới lần lượt lên danh sách. Từng đợt… ban đầu bác Sự chồng chết đã lâu nuôi năm con, kế tiếp cô Bân có chồng đi “tù cải tạo” nhà cửa bị chiếm đoạt, xin ở góc xó phía sau họ vẫn chưa buông tha, rồi đến bà bán bánh canh cuối đường, chị Hoa cạnh nhà tôi. Tội nhất là gia đình chị Hoa, vợ con bán trà đá, chồng đạp xe thồ bị có tên danh sách, họ thu dọn vào miền trong, thời gian sau nghe tin buồn chị và đứa con gái đã mất vì bệnh sốt rét, chồng dẫn đứa con trai vào Nam xoay xở, cùng lúc xóm tôi có nhiều gia đình Cán bộ ngoài Bắc vào được ở những ngôi nhà bị tịch thu.
 
Ông tổ trưởng tuyên bố tạm nghỉ “chương trình đi kinh tế mới”, xoay qua kế hoạch khác là bắt mỗi gia đình cử người lên vùng Bình Điền khai khẩn đất hoang trồng khoai chung sức, hoặc có lúc kêu gọi đi công tác thủy lợi, thanh niên đi rà mìn ...v..v... nỗi lo âu hồi hộp mỗi ngày mỗi gia tăng.
 
Bạn bè con “ngụy” rủ nhau bỏ học trước vì sợ vào lớp ngồi nghe mấy ông thầy “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” trước đây chưởi móc, chưởi xéo, lại thêm tinh thần suy sụp, đang chống chọi với cái đói từng ngày. Một số còn cố gắng học thì bị thanh tra lý lịch không cho nhập trường, có bạn thi vào Sư Phạm hai năm, học được vài tháng bị gọi lên văn phòng báo tin không thể tiếp tục.
 
Chung quanh vài ba bữa nghe tin người này mất tích, người kia vắng mặt, người đang dạy học bỏ đi buôn, hoặc xoay xở nghề khác hơn là đồng lương $40 (bạc Bắc) mỗi tháng không đủ sống, chưa kể bị điều động về các làng mạc xa xôi, ngày đạp xe mấy cây số đi và về, hoặc dạy trên vùng đồi núi thuê nhà dân ở lại, nên mọi người chẳng thiết tha chi ngoài việc bỏ dạy, đó là giai đoạn hầu như cả miền Nam đều... mơ được trốn thoát.
 
Bạn thân tôi tên Diệu Hạnh dạy nơi miền biển, bạn than muốn bỏ dạy nhưng cố gắng ở đó để quen biết với gia đình có ghe đánh cá, bạn hứa nếu có chuyến đi, sẽ kéo tôi theo. Tôi chờ đợi dài cổ, tổ trưởng phân công thanh niên thiếu nữ trong phường làm hết công tác dọn dẹp đường xá rồi lại lên Bình Điền cuốc đất trồng khoai, tương lai có thể đi công tác Thuỷ Lợi, muốn được tạm yên thân nên bạn bè vào Hợp Tác Xã thêu hàng gối và drap trải giường.
 
Sau ba ngày về quê ăn đám cưới bạn, vui chơi phụ gói bánh xu xê, phụ trang hoàng đám cưới cô dâu, dự tiệc tại nhà cũng như nơi trường học (vợ chồng cùng dạy một trường). Đám cưới miền quê rất chân tình ấm áp. Trở về nhà, nghe tin DH lên tìm tôi nhắn chuyện khẩn, tôi tức tốc chạy lên Tây Lộc để gặp thì nghe Mẹ bạn nói “DH đi đâu hai ngày nay chẳng thấy về, liên lạc trường cũng không biết”. Sự nghi ngờ của tôi không sai, sau vài tháng ba DH báo tin bạn đã đến Hồng Kông.
 
Tôi chán chường tuyệt vọng, vùi đầu vào công việc thêu ngày thêu đêm. Chị tôi cũng sợ bị bắt đi lao động, nên học qua khoá chằm nón, khoá thêu ren, ngày thi ra trường chị đậu hạng nhất cả hai bộ môn, mấy bạn tôi cũng đậu hạng nhất, đường kim mũi chỉ họ thật mượt mà sắc sảo, còn tôi đứng hạng ba, nhưng bạn và cả chị tôi không ai kiên nhẫn ngồi thêu, một bộ trải giường kéo dài cả hai tháng, trong khi tôi lại trì sức tháng hai bộ, mỗi bộ lãnh $60 (bạc Bắc). Ban điều hành đặt danh hiệu tặng những người vượt chỉ tiêu là Kiện Tướng, Dũng Sĩ mỗi ba tháng được thưởng $30, và chọn chúng tôi lên ngồi phòng đặc biệt gọi là Đội Kỹ Thuật khi giao hàng phải có trách nhiệm sửa tại chỗ vài lỗi nhỏ chung của mọi người. Lúc đó đầu óc tôi muốn cố gắng kiếm tiền, trước là đem gạo, lúa mì, sắn khoai độn (mỗi bộ hàng được mười ba ký, bộ thứ hai thêm sáu ký) kèm số tiền ($60) về cho Mẹ và rất sung sướng khi thấy nét mặt người vui, nâng niu từng nhúm bột mì, từng nhúm gạo, sau nữa là tôi muốn làm nhiều để có tiền, nếu tổ chức vượt biên nào chấp nhận đóng góp ít ỏi thì may ra.
 
Cứ thế, sáng đi sớm, tối mười một giờ mới về, tôi chẳng hay trời trăng gì bên ngoài, không biết có phải kim hút người..., ai cũng quở tôi trắng xanh và lúc đó chỉ cân nặng ba mươi lăm ký, những đêm cuối tháng cần thêu hàng nạp cho kịp, tôi cùng vài bạn lên ở lại Hợp Tác Xã thêu say sưa cho đến khi nghe tiếng gà gáy, nhìn ra đường thấy trời sáng dần mới giật mình. Sau buổi giao hàng thường mọi người nghỉ dưỡng sức nửa buổi, tôi và nhóm bạn cũ hẹn gặp nhau đi uống cà phê, không gian thời gian nào nhạc cũng là nguồn sống giúp tinh thần chúng tôi tỉnh táo, là thuốc dưỡng tâm hồn tạm quên đi thực tại.
 
Quán Hoa Hồng 9 nằm trên đường Mai Thúc Loan chạy thẳng ra cửa Đông Ba, ngôi nhà gỗ bên ngoài dùng nơi bán cà phê, chúng tôi hay lựa góc bàn sát khung cửa sổ nhìn ra đường… Những chiều Hạ có nắng vàng thật đẹp, khoảng đường trước mặt trải đầy xác hoa Phượng đỏ ối, bạn bè ngồi im lặng ngắm khung cảnh nên thơ, hoài niệm những mùa hè đã đi qua, hoặc mỗi người đeo đuổi ý tưởng riêng, không cần thiết phải nói cho nhau nghe, nhưng lại rất cần có nhau cùng ngồi lâng lâng bên tai tiếng hát Thanh Lan trong bản nhạc “Après Toi” (Vắng Bóng Người Yêu), Nghìn Trùng Xa Cách, Bóng Chiều Tà, Dạ Khúc với tiếng hát Thái Thanh réo rắt, thả hồn về thời hoa mộng đã qua, trốn chạy cuộc sống thực tế, trốn chạy tinh thần suy sụp mệt mỏi, dầu chỉ trong khoảnh khắc tạm bợ… Những lần yêu cầu nhạc, thỉnh thoảng tôi thấy người đàn ông ra thay đĩa nhạc, không ngờ đó là người của định mệnh sắp đặt... dù sau này quán bị đóng cửa vì lý do mở nhạc vàng.
 
Lộc vốn là thầy giáo dạy môn Toán trường Trung Học Đà Nẵng, sau xin thuyên chuyển về trường Hàm Nghi (Quốc Tử Giám ngày xưa), trường bị xoá bỏ, nên được giễu cợt đắng cay cái từ là kẻ “vô lương, mất dạy” ( không có lương, không được đi dạy)
 
Tuy quen biết nhưng chúng tôi ít có thì giờ gặp nhau, gia đình Lộc luôn bị ông tổ trưởng (cách mạng nửa mùa) nhòm ngó, chỉ điểm đưa tên vào danh sách rà mìn, lao động Thuỷ Lợi. Lộc phải trốn vào Sài Gòn (nhà bà Nội để lại), lâu lắm về Huế vào ban đêm nhờ bạn tôi lên chỗ thêu nhắn ra quán chè gần đó, câu chuyện vội vã rồi Lộc lại đi, chúng tôi chỉ có tình thư qua lại…Cuộc sống dật dờ trôi, có yêu thương thì cũng chỉ sống bằng mơ. May mắn, làm nghề thêu, không giao tiếp với ai, chỉ cúi xuống khung thêu cây cảnh, chim bồ câu, hồ Sen, giàn hồng, hoa đủ loại, dùng chỉ pha màu theo con mắt mỹ thuật sáng tạo của mình, vừa thêu vừa được gặp Lộc trong trí tưởng, và vẫn hoài mơ ngày vượt biển...
 
Niềm Hy Vọng
 
Tháng Sáu năm 1979 tôi nhận thư Lộc gởi từ Tây Đức, quá sức bất ngờ... Lộc un đúc cho tôi bừng lên niềm hy vọng mãnh liệt trở lại. Gia đình Lộc sống không được yên thân, sau khi nửa gia đình đã vượt biên, ngày nào cũng bị công an đến hỏi số người vắng, nên Mẹ Lộc bán nhà lẹ làng âm thầm với giá rẻ mạt để vào Nam, vì nếu không bán sớm cũng sẽ bị tịch thu nhà cửa khi họ điều tra ra. Không biết Lộc có bàn tính gì với Mẹ, trước hôm bà chuẩn bị vào Sài Gòn, nhắn cô gái Út gọi tôi lên dặn dò “nếu con muốn đi theo Lộc thì nên vào Sài Gòn dễ có cơ hội, Lộc sẽ lo cho con…”

 Hai tháng sau tôi vào Sài Gòn nghe ngóng tình hình và cũng để thăm người Cô của mình, về Bạc Liêu thăm ông anh luôn. Đi khoảng một tháng chị tôi viết thư cho hay công an khu vực tới nhà hỏi “Cô Minh đã qua Tây Đức chưa?“ và dọa sẽ cắt hộ khẩu (Bọn công an luôn rình mò, nên chuyện gì họ cũng biết). Tôi lật đật trở về, nhưng chỉ tháng sau, em Lộc lại nhắn vào có việc… gấp. “Lần này vác mặt lên khu phố xin giấy đi đường chắc họ sẽ không cho và còn nghi ngờ thêm rắc rối nữa đây” tôi nghĩ vậy nên dự trù đi kiểu nhảy tàu.
 
Nhìn thành phố Huế ban đêm, trên đường lên sân ga, chưa biết tương lai sẽ ra sao, nhưng lòng tôi buồn rười rượi như linh tính đây là lần cuối cùng còn nhìn được bóng đêm của Huế. Thành phố thật im ắng, ngang Phu Vân Lâu thấp thoáng những con đò chòng chành qua màn sương phủ trên sông Hương, đến cầu Trường Tiền tỏa ra ánh đèn vàng nhợt nhạt, gió sông thổi lạnh, xe thồ lái xuống đường Lê Lợi, con đường thẳng tắp, hai hàng cây cao, ngang qua đại học Văn Khoa, Luật Khoa, trường Quốc Học, trường Đồng Khánh... mắt tôi hoa dần, lòng tôi thổn thức nói thầm “Huế ơi... ngày tôi ra đi… buồn tênh...”
 
Tôi nhảy tàu chợ, vì không có giấy đi đường để mua vé, bao nhiêu người bị đạp xuống lúc leo qua cửa sổ với đống hàng cồng kềnh, tôi được may mắn lọt vô nhờ nhỏ con, ngồi cùng cô bé (trạc khoảng mười lăm tuổi) trong góc nối giữa hai gông tàu, nơi có cái máy chạy xình xịch. Tàu chạy, tôi đau ê ẩm vì ngồi kê vào máy móc, mặt gục xuống gối, ngủ dật dờ, bỗng cô bé ngồi chung lay người mạnh “Dậy, dậy đi... có người hỏi…”
 
Tôi mở mắt bị chói bởi cây đèn pin rọi vào, trước mặt là người đàn ông đẹp trai sáng sủa hồi nãy đứng chận người lên và xô họ một cách thẳng tay.
 
- Sao lại ngồi ở đây, theo tôi đi vào trong này…
 
Tôi như người máy bị điều khiển, cô bé cũng níu áo tôi đi theo vào toa trong còn nhiều ghế trống, tôi và cô bé được ngồi ghế dài, chung quanh thấy toàn bộ đội chồng chất ba lô như vừa đi công tác ở đâu xa về. Sau đó ông kiểm soát viên xuất hiện hỏi thăm đôi điều xin địa chỉ muốn làm quen, tôi từ chối lý do “ở ké nhà ông anh tận miền Tây xa lắm”
 
Anh ta nhìn chăm mặt tôi nói
 
- Thấy nét mặt em có vẻ buồn bã…
 
Tôi chợt nhớ hình ảnh người đàn bà ốm yếu nhỏ con, tóc đã bạc màu bị anh ta chụp đầu xô xuống, và thêm nhiều người cố gắng chồm lên bị túm cổ đẩy ra, hoặc bị đạp kèm theo những bịch đồ đạc quăng ra xa, tôi thốt lên như sợ không có dịp được nói
 
- Thấy hồi chiều mấy bác già leo tàu bị đạp xuống như vậy, nghĩ cảnh đời ô trọc tàn nhẫn quá không buồn sao được.
 
Anh ta cười ngượng nghịu
 
- Đã giúp em rồi còn bị nói như vậy.
 
Ông có vẻ quê với bộ mặt lạnh lùng khó ưa của tôi nên cũng bỏ đi. Nhìn em gái dựa vai ngủ ngon lành, tôi lo lắng nhìn ra khung cửa sổ với bóng đêm bao phủ, gió thổi lạnh hơn, miên man nghĩ những điều mơ hồ trước mắt rồi cũng ngủ thiếp như bao người đang ngủ xung quanh.
 
Đến ga Bình Triệu khoảng mười giờ đêm, nghe bà con lao xao nói “ngoài cổng đang kiểm soát vé lại nữa”, tôi và cô em đi chung tái mặt, nếu bị phạt tiền tôi chẳng ngại chỉ lo sợ họ kiểm soát “giấy đi đường”. Thấy có chiếc bàn để cây đèn dầu le lói bày bánh kẹo, thuốc lá, mì, cháo thịt, bên hông lò nấu nước sôi pha cà phê cùng người đàn bà đang loay hoay công việc...
 
Chúng tôi sà tới mua bánh mì ngồi ăn và thăm hỏi, chị bán hàng nói giọng Huế làm tôi mừng rỡ gặp đồng hương, chị kể ở Huế khu nào đường nào, giọng chị mệt mỏi
 
- Bị ép đi kinh tế mới khổ quá liều về Sài Gòn, tìm đất trống dựng mái tranh nhỏ hẹp, mỗi đêm gánh hàng ra đây dọn bán cho tài xế, lơ xe và bạn hàng tới nửa khuya lỡ buổi.
 
Vừa kể chị vừa đưa tay chỉ nơi ở phía xa tối om hoang vắng
 
Tôi thấy nóng ruột quá hỏi
 
- Chị có biết ngoài cổng soát vé mấy giờ thì xong
 
- Thời gian sau này họ kiểm soát bất thình lình lắm
 
Tôi kể
 
- Em “nhảy tàu chợ”, không có giấy đi đường nên không dám ra
 
Chị khuyên
 
- Sẽ có chuyến khác tới, họ tiếp tục kiểm soát, giờ này đường xá vắng hoe cũng nguy hiểm, em nên chờ sáng mai về, có chị ngồi đây bán suốt đêm
 
Chúng tôi mừng rỡ cám ơn, chị vội soạn tấm ni lông lớn trải trên vũng cỏ ướt vừa bị mưa hôm qua, nhắc chúng tôi nằm xuống, rồi chị lấy tấm ni lông màu sậm khác đậy lên che giấu chúng tôi sau chỗ chị ngồi bán. Đêm sương lạnh, vạt đất lồi lõm đọng nước, hai chị em nằm không dám nhúc nhích khi khách đến mua hàng, trắng mắt chứng kiến sinh hoạt sống về đêm đầy chịu đựng gian khổ của một mảnh đời.
 
Sáng tờ mờ tiếng người ồn ào sửa soạn chuyến buôn, chúng tôi cố ý mua nhiều thứ nơi chị bán hàng, chị nhờ người dò la ngoài cổng, thấy không ai kiểm soát người ra vào nữa. Tôi cám ơn chị đã có lòng tốt giúp đỡ, và cũng chia tay cô em chung chuyến tàu, gọi xe xích lô về nhà Mẹ Lộc.
 
Tôi được gặp Ôn Mạnh của Lộc, tuy vai vế trong dòng tộc lớn (anh họ ông Nội), nhưng ông chỉ khoảng năm mươi tuổi ngoài. Được biết, trước Ba Mươi tháng Tư ông giữ chức vụ Trưởng Cuộc Cảnh Sát, đi “tù cải tạo” gần hai năm về, dẫn vợ con vào Nam chọn miền Tây vùng Rạch Giá sinh sống, ôn Mạnh có ba người con gồm O Loan, O Hà và chú Phước tuổi độ hai mươi, mười lăm, mười ba, cả gia đình sống trên ghe đậu góc bờ sông mua bán loanh quanh mưu sinh.
 
Cũng kể thêm, nửa gia đình Lộc đã trải qua năm lần bảy lượt vượt biên mới đi lọt bốn người, sau khi em trai kế Lộc bị công an bắn què chân đành ở lại. Nửa gia đình được tàu Tây Đức vớt đúng lúc lương thực nước uống đã cạn kiệt. Một năm sau được người anh ở Mỹ (đi năm 1976) bảo lãnh qua.
 
Ôn Mạnh có cuộc nói chuyện với tôi, mở đầu bằng những câu tình cảm
 
- Lộc lúc trước vào Đà Nẵng dạy học ở trọ nhà Ôn. Ôn rất thương nó, nghe mạ nó kể hoàn cảnh con, Ôn sẵn sàng giúp, bây giờ con tìm được hai người đi, phần con sẽ không đóng đồng nào, nhưng nếu không tìm được Ôn vẫn giúp, Lộc sẽ trả tiền lúc con được đến nơi.
 
Lúc đó tôi mới hiểu vì sao Ôn dẫn cả gia đình về Rạch Giá sinh sống. Tôi mừng rỡ bắt đầu đi hỏi khắp nơi, kiếm được em của Xuân tên Thiện ở cư xá Thanh Đa (bạn hàng xóm ngoài Huế), cũng nhắn thêm em trai (bà con của Lộc) tên Dũng, cô em Lộc tên Hạnh cũng nhắc nhở bạn trai là Phan, kéo theo cháu trai tên Văn cùng lên gặp Ôn Mạnh để nghe bàn bạc, Ôn đưa ra điều kiện phải đóng trước năm chỉ vàng, gia đình sẽ trả tiếp hai cây vàng khi có tin các cháu đi lọt, mọi người đều thỏa thuận vui vẻ.
 
Trên Đường Vượt Biên
 
Chuyến bắt đầu gần mùa lễ năm 1982, Ôn Mạnh lên bàn họp kỹ càng dẫn theo ông Khách có nét mặt sáng sủa hiền lành không làm kẻ đối diện nghi ngờ sợ hãi. Chúng tôi đổi địa điểm họp nhà Phan (bạn em gái Lộc)
 
Ông Khách dặn kỹ càng:
 
- Mọi người có mặt tại Xa Cảng Miền Tây khoảng 6 giờ, tìm quán cà phê trước mặt bến xe ngồi đợi, tôi sẽ lên để đi cùng xe. Về Rạch Sỏi sẽ có ba con Ôn Mạnh rao bán thuốc lá, bánh tét chuối và quà kẹo đến mời mua, Ôn Mạnh sẽ chỉ chúng đến đúng người, đưa tin dặn dò vào quán nước nào ngồi đợi.
 
Ông Khách dừng lại hỏi có ai thắc mắc, mọi người đều im lặng, ông lại tiếp tục:
 
- Tôi sẽ mặc bộ quần áo đen đi ngang đi lại nhiều lần ngoài đường, khi thấy tôi đưa tay gãi đầu thì đó là dấu hiệu bắt đầu đi, mọi người bám theo tôi và giữ khoảng cách không được gần...
 
Sáng sớm hôm sau năm chị em chúng tôi lên đường gồm em trai của Xuân tên Thiện, bà con của Lộc tên Dũng, hai chú cháu Phan, Văn. Đến Xa Cảng Miền Tây chia ba nhóm, ngồi ba nơi trước quán cà phê bên kia đường nhìn qua. Trong lúc đợi ông Khách đến cùng đi, có vài chị tới gạ chúng tôi mua vé chợ đen, dặn đừng gọi ai ngoài họ, hứa sẽ dẫn mối qua gặp Lơ xe, tôi lắc đầu “không đi” cho qua chuyện, họ ngọt ngào thắc mắc chúng tôi còn đợi ai, tôi vẫn né tránh ngồi giả vờ chăm chú đọc báo. Có lẽ vì chúng tôi đến hơi sớm và ông Khách bị kẹt xe hơi trễ, bất đắc dĩ ngồi chờ hơi lâu, nên các chị (dẫn mối chợ đen) cứ lảng vảng tới hỏi nhiều lần. Họ thấy Phan qua hỏi nhỏ Ôn Mạnh, rồi Ôn lại qua nói vài câu với chúng tôi, hình như nhóm họ sốt ruột, tự nhiên có một chị nổi dữ nói to
 
- Kêu công an đến bắt bọn này hết đi, chắc chắn là bọn vượt biên…,
 
Tôi tái mặt bấm tay Thiện nhảy lên xe thồ chạy, Ôn Mạnh, Dũng cũng mạnh ai nấy nhảy tiếp xe thồ, họ lại được nước bao vây hai chú cháu Phan tống tiền, Phan vừa phân bua vừa rút tiền đưa họ rồi cũng phá vòng vây nhảy lên xe luôn (Phan kể lại). Tất cả về nhà Phan, ngồi đợi một tiếng sau ông khách trở lại, chúng tôi trật đường nhau nên bàn họp cách khác. Lần này thuê xe taxi ngồi chật cứng, tôi và Thiện nhờ nhỏ con nên ngồi thụt xuống sàn. Phan yêu cầu tài xế chạy qua khỏi bến xe lấy lý do
 
- Bác tài ơi hồi nãy chúng cháu lỡ dại gây gỗ, đánh lộn với bọn du côn trong đó, nên bây giờ sợ chúng nó trả thù không dám vào nữa, cho cháu qua bến xe hãy thả xuống.
 
Ông tài xế chẳng thắc mắc gì, cười nhẹ chạy qua khỏi Xa Cảng một đoạn, dừng xe theo yêu cầu, chúng tôi đón xe từ trong bến ra. Tới Rạch Giá, chúng tôi tiếp tục về vùng Rạch Sỏi trời đã tắt nắng, vừa bước xuống bến có mấy em lảng vảng rao hàng tới mời, vì Ôn đã diễn tả hình dáng cũng như cho biết các em mặc bộ màu nâu, nên chúng tôi dễ dàng nhận diện ra nhau.
 
Giọng hai em tíu tít mời lung tung, tôi mua bánh tét, em cười lấy tiền trao hàng rồi nói nhỏ.
 
- Vào quán “Quê”
 
Tôi nhìn quanh có nhiều quán nhưng tìm đúng cà phê “Quê” bước vào, liếc nhanh thấy có nhóm chúng tôi đã ngồi rải rác. Chị em gọi cà phê, ông chủ quán ngớ ngẩn nhìn và hỏi lại “uống gì”, vì tiếng Huế nói khó nghe nên chúng tôi rất ngại, tiết kiệm lời nào tốt lời đó, đoán chắc ông không hiểu nên đưa tay chỉ khách đang ngồi uống, ông “ồ“ lên rồi nói
 
- Chế ở đâu tới đây, uống thứ này gọi là “xây chừng”
 
Tôi gật đầu cười cám ơn, ngồi chờ khoảng mười phút thấy ông Khách xuất hiện mặc áo quần đen, đúng lời ông dặn chờ “dấu hiệu gãi đầu”. Ly cà phê vừa đem ra chưa uống hớp nào đã vội trả tiền bỏ đi dưới sự ngạc nhiên của ông chủ quán, ánh mắt ông có vẻ nghi ngờ điều gì, nên ra đứng nhìn theo...
 
Trời về tối, bóng đêm phủ dài con đường, người đi ngược kẻ đi xuôi nhộn nhịp, tôi nghĩ thầm “sao nơi quê người ta lại đông đúc chơi đêm vui vậy, càng tốt cho mình lẩn tránh không ai để ý...” lòng thấy yên ổn hơn một chút. Nhóm tôi từng cặp bám nhau khoảng cách vài mét, nhưng mắt vẫn theo sát ông Khách, đi khoảng hơn tiếng đồng hồ thấy nhà cửa càng lúc càng thưa thớt hai bên, cây cối um tùm, nhưng người ta vẫn dạo đêm thật đông.
 
Bỗng nhiên có nhiều xe chạy trên đường cùng tiếng còi hú, tiếng chân người chạy dồn dập ngược xuôi, chúng tôi mất dấu ông Khách mặc bộ đen, linh tính điều gì đó, phản xạ tự nhiên chị em nhảy vào bụi rậm bên đường, bò vào xa hơn gặp lạch nước với các lùm cây cao rộng. Ngồi yên nghe ngóng tiếng còi hú, tiếng chân người chạy, tiếng súng bắn chỉ thiên, rồi tiếng hét “lên xe, lên xe, đưa tay lên...”
 
Đúng là công an lùng bắt rồi, có ánh sáng đèn pin rọi vào cây cối, nhưng may chúng tôi lọt sâu quá, tiếng chó sủa vang, chị em nép người bên bụi cây nín thở. Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, những âm thanh ngoài đường đã im ắng trở lại. Đêm lạnh giá, tôi ngồi co ro chờ đến sáng, em Thiện sợ quá trèo lên cây cao, ôm cây ngủ gật nửa đêm rớt tỏm xuống lạch nước.
 
Trời mờ sáng dần dần, chị em mò dép và giỏ lát đã quăng mất đâu, may giấy tờ và tiền bạc cột chặt nơi túi quần có khâu kim băng nên vẫn còn, lò dò chui ra đường ngoắc xe thồ, ông nhìn chúng tôi lê thê lếch thếch đi chân đất với ánh mắt tò mò, hình như ông đoán ra điều gì mỉm miệng cười, rồi im lặng chở đến bến xe Lam Rạch Sỏi.
 
Chúng tôi muốn đánh lạc hướng tránh tình trạng bị nghi ngờ nên dặn nhau đi khác chuyến. Bước lên xe hai bàn tay không, sắp Tết người buôn Pháo nhiều, một chị buôn hàng thấy tôi tay trống chẳng cầm gì nên sáng mắt hăm hở nhờ xách ba giỏ Pháo lớn kèm lời dặn dò.
 
- Xách giùm chị nghe cưng, khi ngang mấy trạm kiểm soát, thuế vụ lên hỏi cứ nhận hàng của em nghe.
 
Tôi lặng lẽ ôm mấy giỏ pháo và thầm mừng “nếu không có chắc dễ lộ tẩy lắm”
 
Về bến xe miền Tây, tôi ngồi xe Lam nhìn dòng người ăn mặc đẹp, từng cặp tình tứ sánh vai nhau giữa đêm lễ Giáng Sinh nhộn nhịp đèn cờ sáng choang, trai thanh gái lịch đi chơi đầy đường, phố xá đông đúc rộn ràng, còn tôi thì bước chân xiêu vẹo không mang dép, bộ quần áo nghèo cực trá hình, đang muốn mau lẹ về nhà Mẹ Lộc trong nỗi sợ hãi hoảng loạn.
 
Chờ đợi kéo dài ba tháng sau tôi nhận được thư chị Nguyên (chị ruột) ngoài Huế báo tin công an đến tra khảo nhiều lần, hiện họ đã cắt hộ khẩu. Tôi nghe như cuộc đời mình bị lìa đoạn khỏi Huế, nơi đã nuôi dưỡng bằng ánh sương mù, bằng những con đường êm ái tỏa rợp bóng mát, mùa hè đỏ ối xác Phượng trên đường Mai Thúc Loan, Thượng Tứ, Phu Vân Lâu. Hoa Sầu Đông bụi phấn rơi đầy tóc yêu thương tình Vỹ Dạ, nơi có ánh nắng chiều hiu hắt trên bến sông sau ngôi vườn nhà bạn bên khu chợ Cống, nơi có bóng dáng người lính oai hùng ngày nào thỉnh thoảng về phép, ôm đàn buông lơi tiếng hát trầm buồn, mắt xa vắng tận cõi nào… “Trong chiều dần im hơi. Người ngồi thương nhớ bao ngày vui. Một ngày xưa cũ, đời còn đường tơ. Là ngày hai đứa chúng ta còn thơ. Chiều hè êm ru. Tràn ngập hương mơ. Cuộc tình đôi lứa như bài thơ...” (Mối Tình Xa Xưa. Lời Việt_Phạm Duy). Lòng tôi đau nhói với số phận đoạn tuyệt... nơi đã êm đềm một thời thanh xuân, tắm mình cùng thơ văn tẩm đẹp tâm hồn nơi xứ Huế đầy thơ mộng. Dù tâm hồn tôi đã mang theo Huế, vẫn còn đón nhận cảm giác buồn tủi. Nhưng không, tôi phải nhìn vào thực tế với hoài bão luôn bùng cháy, tôi phải mạnh mẽ nhìn con đường phía trước...
 
Trở về Bạc Liêu, nghĩ đến anh chị mình, càng thương vì trước 1975 đang sung sướng được chính phủ cấp nhà trong cư xá công chức. Sau 75 bị đuổi ra, anh chị tìm thuê căn nhà nhỏ chung vách nguyên dãy lợp tôn trước đây là chuồng ngựa, “bụng đói đầu gối phải bò”, chị bôn ba chen chân ra chợ đặt chiếc bàn góc xó bưng trà đá đi khắp giao cho bạn hàng rao khô cổ, sau mấy năm trời mới được chen chân vào chợ Nhà Lồng bán nước giải khát nơi khu tập trung ăn uống.
 
Chị dâu bệnh nhờ tôi ra trông coi quán, có nhiều chuyện vui buồn...
 
Một ông khách từ dưới Gia Rai (miền quê của Bạc Liêu), có nhà máy đường sản xuất thường đem hàng lên bỏ sỉ trong chợ, hay ghé quán uống nước, thấy tôi nói giọng miền Trung, ông ta hỏi chuyện.
 
- Em ở ngoài Huế hở? Anh Hai không phải loại thường đâu nha, đ...m..... trước 75 anh Hai cũng là Hạ Sĩ lính VNCH binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, đã từng đóng quân ngoài Quảng Trị, Huế, anh Hai thích mấy O Huế lắm…
 
Tôi mở lớn mắt nhìn người dân quê chơn chất nói chuyện, dù sao cũng thấy vui vì có người biết đến thành phố Huế, không như nhiều người nghe tiếng tôi nói vẫn luôn quở trách tỉnh khô
 
- Chế (chị) ở ngoài Bắc vào phải không? Nếu mấy Chế không tới đây thì tụi tui đâu có khổ vậy
 
Tội nghiệp chưa?!!! nào ai cần mấy ông ngoài Bắc vô “giải phóng” để đời sống người ta cơ cực, khổ sở, than trách như vậy. Những lần nghe thế, tôi chẳng muốn giải thích vì giọng Huế khó ai nghe được, và cũng thương họ vì ít ai nắm hiểu bản đồ phân chia ranh giới rõ ràng Nam Bắc từ đâu.
 
Mỗi ngày ra giữa chợ đời với kiểu buôn bán giành giựt, tôi chỉ biết giả ngơ giả điếc, nhịn câm chán nản, càng nôn nao muốn quay về Sài Gòn nghe ngóng tin tức. Thấy chị dâu cũng khỏe lại, tôi lên Sài Gòn tiếp tục theo dõi. Công an khu vực hình như bắt đầu để ý nhà mẹ Lộc, thường hay đến hỏi em dâu Lộc đủ điều, gia đình cho tôi biết nên tôi cũng không dám tới. Luôn tiện Xuân đang nhận hàng thêu áo dài gởi ra nước ngoài, muốn tôi cùng làm phụ. Bạn dẫn tôi đến chị chủ thầu thử tay nghề, chị nhận tôi và giao thêm hàng cho Xuân, tôi lại cặm cụi thêu để thời gian bớt dài thêm trong lúc chờ đợi...
 
Chuyến thứ hai vào tháng ba năm 1983, Ôn Mạnh tiếp tục dẫn năm người về Rạch Giá. Chương trình dự tính tới sớm đi loanh quanh chợ, 8 giờ tối Ôn Mạnh sẽ trở lại đúng điểm hẹn dẫn theo. Xe về Rạch Giá khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi đi quanh quẩn trong chợ chán rồi lại đi các con đường vòng thành phố rụi cẳng, trời tối trở lại bến xe ăn uống, lảng vảng gần địa điểm đã dặn. Chờ đến 12 giờ đêm vẫn không thấy Ôn Mạnh, mọi người tìm quán trọ ngủ rồi mai tính tiếp. Định vào quán trọ thấy bóng mấy công an đang soát giấy, tôi chẳng có giấy đi đường nên không dám vào thuê chỗ, cả Thiện cũng sợ bị nghi ngờ nên hai chị em đồng ý ngồi ngoài phòng bán vé của bến xe. Thế giới về đêm cũng nhộn nhịp, ồn ào như ban ngày bởi những chuyến buôn hàng chờ xe, chị em ngồi dựa ngoài vỉa hè, thấy chung quanh dân ăn xin đã nằm dài ra ngủ. Tôi luôn đem theo chiếc áo mưa bên mình, cẩn thận rờ lại tiền bạc cột ghim cái bọc may giữa bụng, rồi mặc áo tơi vào, nằm xuống cạnh người đàn bà, dùng chiếc nón rách che mặt, em Thiện cũng nằm bên cạnh, tôi đạp chân nó nói nhỏ
 
- Cái bóp mi lo cất cẩn thận
 
Nó vẫn nằm yên
 
- Cất rồi
 
Tôi chưa yên tâm
 
- Mi cất mô
 
Nó nói
 
- Chỗ không ai đụng được
 
Hai chị em cùng cười, khi đã yên bụng thì cũng thiu thiu ngủ giữa đám ăn xin nằm sát nhau, bên tai tiếng xe nổ, tiếng ồn ào nói chuyện của bạn hàng buôn, tiếng mấy anh lơ xe hát cải lương, tiếng đối đáp chọc ghẹo qua lại mấy cô gái chẳng biết làm nghề gì cùng mấy anh bụi đời sương đêm...
 
Trời tờ mờ tôi mở mắt lồm cồm ngồi dậy, tôi thích cảnh vừa sáng và lúc sắp hoàng hôn. Buổi sớm cho tôi nhìn thế giới năng động của ngày mới bắt đầu, từ hình ảnh người ngồi trên xe máy, trên xe xích lô chất đầy hàng, từ mẹ con lui hui dọn bàn ghế góc vỉa hè xó chợ, từ gánh xôi bày ra ghẹo bao tử, nồi bún bốc khói mê hoặc cái mũi, dòng người sinh động mạnh mẽ với sự sống. Hoàng hôn là lúc chim vội vã bay về tổ ấm, người vội vã chân bước, ánh nắng lịm dần buồn bã, mọi thứ như buông xuôi ngừng nghỉ chịu thua bóng đêm lan dần... Đang mơ màng quan sát khung cảnh chung quanh, đầu óc chưa tỉnh táo lắm thì gặp mấy em đi ngang vào quán điểm tâm, thấy chúng tôi liền nháy mắt, tôi gật đầu kéo Thiện vào quán hủ tiếu, nửa tiếng sau Ôn Mạnh xuất hiện ra lệnh về gấp, tổ chức giờ phút cuối bị trục trặc, Ôn dặn ở yên Sài Gòn chờ đợi chuyến gần nhất.
 
Chuyến thứ ba tiếp tục vào mùa hè (sau ba tháng) năm 1983, nhóm vẫn như cũ không có gì thay đổi. Lần này Mụ (vợ Ôn) lên dẫn về ngay Rạch Sỏi, theo gót Mụ Mạnh xuống một ghe máy cố học thuộc lòng câu trả lời, nếu ghe bị dừng lại trạm kiểm soát giữa sông “về kinh năm tìm thầy Tư Hậu chữa bệnh” như lời Mụ dặn.
 
Trời nhá nhem tối, lúc lên đường bộ (chẳng biết vùng nào), chúng tôi được Mụ dẫn đi lòng vòng khá xa, tới một ngôi nhà vắng vẻ có người đàn ông đưa vào căn buồng kín rồi dặn ngồi chờ, Mụ từ giã ra về. Khoảng tiếng đồng hồ sau có người đàn ông khác trạc gần 40 tuổi đến dẫn chúng tôi đi tiếp bằng đường bộ cong queo khó nhớ, nhà cửa thưa thớt nhìn quanh toàn cây cối um tùm, ông đưa vào một ngôi nhà tranh thấp nằm chen giữa các bụi tre, cây Nhãn cao che khuất mái nhà. Chị vợ cũng trạc tuổi chồng hoặc ít hơn, đã sửa soạn buổi cơm tối với món canh chua và cá rô chiên, nồi cơm chín có hấp lá dứa thơm cào ruột, chúng tôi ăn thật ngon sau cả ngày đi đường mệt nhọc. Anh chị tên là Tư Cầu có hai con nhỏ, vì lo việc họ đã gởi cháu về chơi bên ngoại ít hôm. Anh chị dặn đôi điều trước khi mọi người đi ngủ.
 
- Ngày mai khoảng năm giờ chiều chúng ta sẽ đi, tụi này chia ra hai xuồng chèo chở mấy em đến chỗ hẹn, sẽ chèo qua vùng nước sâu, các em phải bình tĩnh lúc gặp gió mạnh và bão, tụi này biết bơi, nếu có chuyện gì sẽ cứu, đừng sợ...
 
Người Nam thường thật thà nghĩ sao nói vậy, chúng tôi thấy mến thương vẻ mặt hiền lành chơn chất của anh chị vô cùng. Đêm đó tôi nằm bên cạnh chị nhưng không tài nào chợp mắt, gần sáng hơi chập chờn thì ánh nắng đã lên cao rọi vào mặt qua khung cửa sổ, chị Tư gọi dậy ăn cháo hột vịt muối và dặn đừng đi ra ngoài. Buổi trưa tôi phụ chị lặt rau muống và vài việc lặt vặt, chị kho tôm thịt, xào cải làn với canh rau. Bữa ăn có vẻ thân mật hơn, anh kể đủ chuyện, chị đùa thêm vào.
 
- Bữa nào gởi cho anh vài gói thuốc và cái máy hát
 
Anh Tư mắc cỡ la chị, nhưng Phan, Thiện cùng nói một lần
 
- Tưởng gì chứ chỉ chừng đó thì quá dễ…
 
Mọi người cùng cười vui vẻ với bữa ăn trưa no nê.
 
Bốn giờ chiều, tôi thay bộ bà ba đen, ai cũng trong tư thế sẵn sàng. Chị Tư lấy khăn Rằn quấn lên đầu tôi theo kiểu miền Tây, chị tỏ vẻ lo lắng nhìn tôi và Dũng.
 
- Hai em trắng quá coi chừng bị lộ, lúc ngồi xuồng cầm chèo nha, mặt nhớ cúi xuống để đừng ai thấy da mình trắng quá đấy.
 
Tôi và Thiện đi xuồng chị Tư, Thiện đứng cuối chèo cây dài, chị Tư Cầu đứng đầu mũi, tôi ngồi giữa dùng chèo ngắn. Ra sông dòng nước mênh mông, con xuồng nhỏ bé chòng chành trên sóng, rất nhiều các ghe máy chạy ngược xuôi, bất ngờ có một ghe chạy nhanh sát làm nước văng tung toé, phản xạ tự nhiên tôi ngẩng đầu lên nhận ra hai O Loan và Hà (con Ôn Mạnh) mặc bộ bà ba nâu, là hai nhân vật bán bánh kẹo đến mời chúng tôi mua nơi bến xe Rạch Sỏi chuyến trước, hình như các O cũng nhận ra chúng tôi nên thấy cười chúm chím và rồi ghe chạy mất hút.
 
Xuồng chèo khoảng hơn tiếng đồng hồ, đến một khu vắng thì tấp vào bờ, chị Tư cho biết đã đến. Tôi bước lên thấy có số đông người đứng sẵn đó, nghe vài ông nói qua lại còn hai ghe nữa. Trong lúc chờ đợi nhóm năm người chúng tôi đã đầy đủ, hai O cũng tìm chúng tôi và đứng chung một góc, O Loan cười khúc khích hồn nhiên
 
- Buổi chiều thấy chị ngồi chèo, bàn tay trắng muốt, chạy ngang qua xuồng khác thấy anh Dũng bịt khăn trên đầu, Loan cứ mắc cười hoài…
 
Khi ban tổ chức kiểm đủ ghe, họ lên tiếng chỉ huy đoàn người đi theo. Bóng tối mờ mịt, chúng tôi rạch rẽ cây lá để bước bị cắt vào da thịt, vào mặt rát bỏng, mọi người lầm lũi đi, có những bà mẹ ông cha vác con nhỏ trên vai hình như đã cho uống thuốc mê nên nằm yên. Chân mỏi, tay rã… một đoàn người cứ âm thầm đi hơn tiếng đồng hồ, đến một khu tối thui, người chỉ huy dõng dạc ra lệnh ngồi đây chờ tàu, chúng tôi yên tâm thấy từng nhóm ngồi xoay quanh, họ còn dặn nhau
 
- Có đi nhớ gọi chúng tôi nếu lỡ ngủ quên nhé
 
Đêm lạnh buốt, không có lối đi chỉ toàn rừng rậm, ngồi co ro chập chờn nhưng tôi vẫn yên tâm bởi những nhóm ngồi chung quanh. Trời sáng dần... tôi thảng thốt vì đêm qua nhanh quá. Chúng tôi quay qua hỏi nhóm này, họ cũng hỏi lại chúng tôi, mọi người hỏi lẫn nhau
 
- Ông chủ đi đâu rồi?
 
- số người đi cùng đâu rồi?
 
- các ông ở đây mà sao không hay biết vậy?
 
- tôi đâu có hay, tôi ở xa đến mà
 
Lời qua tiếng lại, mọi người ngơ ngác nhìn quang cảnh chung quanh chỉ thấy toàn lau sậy rừng lá
 
- Thôi... bể... rồi, bây giờ mạnh ai nấy tìm đường về, nếu có nhóm nào bị bắt đừng khai nhóm khác nhé.
 
Mọi người đồng ý tản mác, nhóm chúng tôi bảy người chẳng biết hướng nào ra, đi liều một đoạn xa thì gặp hai thanh niên vác liềm dao đốn củi, họ quan sát chúng tôi rồi hỏi
 
- Các anh chị từ đâu tới phải không? Nhìn biết chẳng phải dân vùng này, có đúng đi vượt biên?
 
Chúng tôi tránh vấn đề chỉ kể bị lạc đường, cần các anh tìm cách đưa qua vùng Rạch Sỏi, gặp thân nhân sẽ trả tiền nhiều. Thanh niên có dáng thấp nói với anh cao
 
- Nhà mày có ghe cố gắng giúp họ qua sông đi.
 
Anh cao suy nghĩ một hồi rồi gật đầu, nhìn mặt họ hiền lành chất phác chúng tôi cảm mến yên tâm đưa hai chỉ vàng và ít tiền làm tin, họ hứa tối nay sẽ đến đón chở qua sông, đồng thời họ cũng dẫn chúng tôi đến bãi lau sậy cao gấp ba đầu người có vẻ kín đáo an toàn, dặn ở yên trong đó. Chúng tôi ngồi bó gối với tâm trạng lo lắng, hồi hộp “không biết họ có bỏ rơi mình”, chỉ biết cầu nguyện và chờ đợi…
 
Đến tối người thanh niên trở lại đem theo nồi cơm, nước uống và cá bội sặc phơi khô, anh ta cho biết
 
- Tạm thời anh chị ở thêm ngày nữa, chờ tối mai tình hình yên lắng sẽ đưa đi, vì hiện thời công an cùng cán bộ xã đang lùng ráo riết khu rừng này, sau khi đã bắt giữ số người sáng nay, cũng như phát hiện tổ chức vượt biên bị bể tối qua.
 
Đêm muỗi đốt đầy người, sương rừng xuống lạnh buốt, mong thời gian qua nhanh để được thoát.
 
Ngày sau khoảng bốn giờ chiều, mỗi người ngồi một góc bỗng nhiên nghe tiếng nhiều người nói chuyện đi tới, chúng tôi nín thở, tiếng nói to rồi nhỏ, rồi xa dần… Chúng tôi vừa thở phào thoát nạn, bỗng nhiên có người đàn ông vén đám sậy, mắt mở lớn nhìn chúng tôi, mặt tái mét xanh rờn, run rẩy hét to:
 
- Đưa tay lên , đưa tay lên…
 
Sau đó ba phát súng bắn chỉ thiên chát tai, đoàn người chạy lui bao vây, dẫn cả bọn ra trói tay lại. Họ thấy có nồi cơm, cá sặc và nước uống thì la lên
 
- Lại thức ăn nữa, chứng tỏ có người bao che bới xách, tôi quyết điều tra vụ này. Ông lớn tuổi nhất (trưởng xã) quay qua nạt hỏi
 
- Người nào bới thức ăn đây? tả dáng người xem sao
 
Tự dưng Phan buột miệng
 
- Của bà nào đi mót củi, làm rẫy ngang qua thấy tội cho phần cơm của họ
 
Ông xã trưởng không tin quay sang hai O
 
- Để hỏi hai cháu nhỏ này, ai bới cơm vậy cháu kể cho bác nghe đi
 
O Loan vừa chảy nước mắt vừa nói
 
- Của bà nào không biết
 
Ông hỏi dồn dập
 
- Dáng bà ra sao? độ bao nhiêu tuổi
 
O Loan quệt nước mắt
 
- Bà lùn mập khoảng bốn mươi tuổi
 
Ông lẩm bẩm lập lại
 
- Tôi quyết điều tra
 
Ông xã trưởng dẫn đầu, kế tiếp bảy mạng chúng tôi bị trói tay và dân vệ kềm theo, gần tiếng sau đi vào làng, dân chúng đổ xô chạy ra đứng hai bên xem rất đông
 
- Mèn ơi.. đàn bà con gái mà ghê gớm
 
- chết cha rồi con ơi, chuyến này bị tù mọt xương
 
- chời ơi chắc đói khát lắm
 
Những tiếng lao xao vây bủa chung quanh, chúng tôi giống những tù binh lầm lũi bước như người không hồn, có lúc qua cầu khỉ Dũng bị rớt xuống nước ướt loi ngoi đứng lên tiếp tục đi, nhìn rất thảm thương…
 
Cả đoàn dừng lại, ra lệnh cho chúng tôi ngồi xuống nghỉ chân vì họ cần liên lạc vài nơi nào đó. Dân làng túa tới bao vây, họ bàn tán theo chuyện chúng tôi bị bắt. Qua câu chuyện họ nói... tôi hiểu được hai thanh niên định giúp đưa qua sông, hôm qua có tiền đi nhậu hào hoa với bạn bè, một hiện tượng lạ nên bị gọi lên xã điều tra sự việc, dù cho về nhà nhưng vẫn còn bị nghi ngờ theo dõi.
 
Tiếng người đàn bà chắt lưỡi
 
- Tía ơi hai ngày rồi chắc đói khát lắm, tui đem nước cho mấy em uống nghe
 
Ông xã trưởng hung hăng
 
- Không cho uống, tụi nó có mệt bằng tụi tui đi lùng hai ngày nay không
 
Ông nhìn chúng tôi rồi đổi giọng
 
- Nói vậy chứ cho chúng nó uống đi.
 
Một bà nhanh nhẩu đem nước, thật tình chúng tôi khát quá nên uống ừng ực, người đàn ông hồi chiều bắn chỉ thiên nhìn với ánh mắt ái ngại
 
- Uống từ từ thôi
 
Một bà khác nhìn ông xã trưởng nói tiếp
 
- Tui mới nấu nồi cơm xong, cho tui đem ra nghen
 
- Tui cũng mới kho nồi thịt, cho tui đem ra luôn hén
 
Ông gật đầu, vậy là các chị, các bác nhanh nhẩu đem thức ăn, đem trứng luộc ra cho chúng tôi. Hai O không chịu ăn cứ ôm mặt khóc thút thít, tôi năn nỉ không được cũng chảy nước mắt theo, bị mấy em la
 
- Cái chị này nữa, tình thế như vậy thì bình tĩnh mà lo việc trước mắt, tại sao ngồi khóc theo hai O
 
Mấy em trai lấy cơm ăn tự nhiên và nói “lấy sức lo việc sắp tới”. Ông xã trưởng thấy mấy bà lăng xăng lo cho chúng tôi ăn, ông hỏi
 
- Có bà nào bới cơm cho tụi nó đó
 
Bỗng nhiên ông nhìn dáo dác rồi đẩy một bà mập tới trước mặt chúng tôi hỏi
 
- Phải bà này bới cơm không, hay bà kia, bà nọ..
 
Mấy bà nhảy đựng nhao nhao
 
- Không phải tui à nghe, mà bà nào gan quá ha, bà nào trong làng vậy hả?!!!
 
Có lẽ tiếng truyền miệng “bà nào bới cơm” tới tai anh chàng “bới cơm” hứa giúp đưa chúng tôi qua sông, bỗng dưng anh ta xuất hiện nói với ông xã trưởng và mọi người
 
- Tui bị nghi oan, cứ hỏi mấy người này có biết tui không?
 
Chúng tôi làm mặt lạnh nhìn anh ta như diễn tả sự xa lạ ngơ ngác không hề quen biết. Ông xã trưởng xua tay
 
- Tao không nói mày, sẽ còn điều tra mày nữa đó
 
Ăn cơm xong, ông xã trưởng nói với chúng tôi
 
- Thấy các cháu mặt mày hiền lành, chú biết đã bị lường gạt nên thương, sẽ không trói các cháu nữa, chú sẽ dẫn về xã ở lại một đêm, mai có ghe chở về kinh làng thứ ba.
 
Chúng tôi nhìn các bác, các chị tỏ vẻ cám ơn chứ không dám thốt lời nào, hình ảnh những người nông dân chơn chất, thật thà, rộng rãi tốt bụng của người Nam gieo trong trí tôi ấn tượng sâu đẹp vô cùng.
 
Đi ngang qua quán nước, có tiếng người đàn bà vọng ra
 
- Anh Năm ơi, đi bắt người vượt biên về đó hở, chắc anh Năm mệt lắm, vô ngồi nghỉ uống nước đã
 
Ông xã trưởng dẫn chúng tôi vào
 
- Các cháu muốn uống cà phê hay thứ gì thì uống, chứ vô trong tù rồi không có mà uống đâu, giờ uống cho đã thèm đi.
 
Chúng tôi gọi cà phê đá, ông Năm ngồi nói chuyện với chủ quán chờ chúng tôi uống thong thả rồi đi tiếp.
 
Đêm ngủ tại xã, có thêm số người cũng bị bắt tội đưa rước, chứa chấp, móc nối tổ chức vượt biên. Tôi nhận ra chị Tư Cầu cũng có mặt nhưng chúng tôi làm như không quen biết. Sáng hôm sau trời đang còn tờ mờ, lựa lúc mọi người đi rửa mặt, chị Tư Cầu đến gần chúng tôi nói nhanh
 
- Vì mất dấu anh Tư nên tui chàng ràng quanh quẩn tìm anh bị túm luôn, tui khai đi hốt rong nên sáng nay được thả, về tui sẽ báo tin cho người thân cô cậu biết.
 
Chúng tôi cám ơn và thấy thương vợ chồng anh chị vô cùng, tuy chỉ ở một đêm ngày mà tình anh chị rất gần gũi thân thiện. Sau buổi ăn sáng có vài công an đến trao đổi giấy tờ với xã, rồi dẫn đoàn người xuống lạch sông dùng ghe máy chở về nhà tù An Biên.
 
Nhà Tù An Biên
 
Nhà tù có hai căn nam và nữ riêng, ngày hai lần sáng chiều công an mở cửa cho đi hàng một, ra khoảng đường xa đến nhà vệ sinh, lấy nước uống từ ao đầm, mỗi ngày có trâu lăn mình tắm, rồi đến phiên chúng tôi tắm. Nước có màu như đất sét đục ngầu toàn rong rêu, mùi rêu lẫn mùi nước tanh quá không ai uống được, một chị tù nghĩ ra cách mỗi lần nấu cơm đổ nước đầy nồi, chờ sôi chắt cạn đổ vào bình để nguội uống, nhờ vậy bớt tanh vì nghe mùi nước gạo. Mỗi sáng công an đứng trước cửa ghi danh sách tù nhân mua gì, rồi anh ta đi chợ đem về phân phối.
 
Sinh hoạt hàng ngày trong tù diễn ra... nhóm ngồi kể chuyện xưa, nhóm đánh bài, nhóm ồn ào đấu khẩu. Tôi rà đúng vài cô bạn, ngồi nói chuyện phim trước 75 như Papillon (Người Tù Khổ Sai), Les Misérables (Những Kẻ Khốn Cùng), The Hunchback of Notre Dame (Thằng Gù Ở Nhà Thờ Đức Bà) của Victor Hugo, The Longest Day (Ngày Dài Nhất), La Valse dans L’ombre (Vũ Điệu Trong Bóng Mờ) mê cặp tài tử Vivien Leigh và Robert Taylor, Meurtres au Soleil (Tình Thù Rực Nắng), First Love (Natalie Wood), Love Story, Công Chúa Sissi (Nữ Hoàng Áo Quốc), Hamlet, Romeo & Juliet (William Shakespeare) Doctor Zhivago (Julie Christie & Omar Sharif), thích nhà văn Boris Pasternak với câu nói “Con người sinh ra để sống, chứ không phải sống để mà tranh đấu”. Vô số tác phẩm nổi tiếng, được đem ra bàn luận cho qua ngày tháng, chưa kể chuyện nhạc, có khi cùng hát đổi lời bài “Chiếc Lá Cuối Cùng” của Tuấn Khanh “Nơi An Biên... ngày dài đêm lạnh giá, mình ngồi đây với tất cả sầu thương... Lòng buồn tênh biết bao giờ rời khỏi, bóng đêm tàn lòng héo hắt mơ ai...”
 
Những đêm Trăng sáng, tôi nằm ngoài nhìn qua song cửa tù, ký ức sống dậy miên man ngày tháng cũ, tạm quên tấm thân da bọc xương đang nằm trên mô đất lồi lõm cao thấp nhức mỏi, nhà tù có dãy giường tre để nhường cho trẻ em và người lớn tuổi, nhóm bạn bè này còn... khỏe mạnh mà.
 
Một tháng sau có chuyến thả tù, hai O Loan, Hà nằm trong danh sách được về, chúng tôi nhìn nhau nước mắt chia tay không biết có dịp gặp lại, hai O hứa sẽ nhắn Mụ thăm nuôi, sau đó O Loan đưa tôi ít tiền được cất kỹ từ lâu.
 
Tháng kế tiếp Mụ Mạnh thăm nuôi, tôi không được gặp, chỉ nhận giỏ thức ăn gồm hộp tôm thịt kho, hộp muối sả cá khô, lược chải chí, đồ cá nhân phụ nữ và mấy phong bánh. Tôi mời bánh mọi người và xếp gọn quà lại, bỗng khám phá trong đống khăn có miếng giấy nhỏ gấp tư và tiền xếp vào, nội dung bức thư “Minh con! mụ báo tin hai O đã đi lọt và được tàu Tây Đức vớt, con giữ gìn sức khỏe...” tôi vừa mừng và cũng cảm thấy hụt hẫng khôn nguôi.
 
Bốn tháng trôi qua tôi được thả, căn cước (thẻ chứng minh nhân dân) đã bị tịch thu lúc mới vào, giấy đi đường cũng không, chỉ còn tấm thân trơ trụi. Các em trai không ai được thả.
 
Ngày về nhà mẹ Lộc, trong nhà hoảng sợ cho biết công an khu vực đã để mắt chú ý gia đình. Tôi chạy lên nhà Cô Nga (em ba tôi), Cô có quán bán cà phê, thấy tôi Cô liền dặn
 
- Cháu chỉ ở trong phòng thôi nhá, quán này Công An đến uống nhiều lắm, cháu lại không có giấy tờ đăng ký tạm trú, nhớ đừng bước ra ngoài
 
Tôi ở nhà Cô vài ngày rồi lên Xuân dự định thêu hàng tiếp, nhưng thời điểm này hàng thêu bị chậm khi có khi không, bạn níu tôi ở lại vì muốn thăm nuôi em Thiện, cần nhờ đưa đường dẫn lối, bà ngoại Dũng cũng muốn đi thăm nuôi cháu khi hay tin. Tôi biết trại tù mỗi tuần mở cửa nhận hàng thăm nuôi vào ngày Chủ Nhật, tôi cũng sửa soạn một giỏ thức ăn, đồ dùng chung cho chị em tù còn ở lại
 
Thăm Tù Kinh Làng 7 & 11 (rừng U Minh)

Tuần sau hai chị em cùng bà ngoại Dũng chuẩn bị lương thực đi thăm nuôi, Xuân xin được giấy đi đường nên mua vé công khai cùng bà Ngoại, tôi mua vé chợ đen vì không có giấy tờ tùy thân cũng như giấy phép đi đường. Xe đi suốt ngày về Rạch Giá, lo dẫn bà Ngoại thuê phòng trọ nơi bến xe, tôi dự trù ngồi ngủ ngoài phòng bán vé vì thấy công an vào các phòng trọ kiểm soát, Xuân không để tôi một mình, chị em ngồi ngoài sân có đông đúc người đi buôn chờ sáng. Nhờ dòng người tấp nập nhộn nhịp nơi bến xe, hầu như sinh hoạt ban đêm cũng giống như ban ngày, nên chúng tôi ngồi một góc xó chung quanh những con buôn nằm ngồi tự nhiên.
 
Sáng vừa hé giữa trời đêm còn ngái ngủ, ba người đi xe lam về Rạch Sỏi, leo ghe máy tới nhà tù An Biên. Ghe chạy giữa sông ghé trạm kiểm soát, một tên công an mặt non choẹt nhảy qua đến trước mặt tôi cười cười hỏi xem thẻ chứng minh nhân dân, tôi tỉnh mặt nói Xuân đưa ra, rõ ràng hình trong thẻ của Xuân khác mặt tôi một trời một vực, dáng Xuân nhỏ và mặt non như bé độ khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, vậy mà ai mài mắt tên công an... anh ta tưởng em gái đưa thẻ của chị mình, nhìn liếc tôi rồi trả lại. Tôi cũng không hiểu sao mình lại trơ lì chẳng có chút cảm giác sợ sệt, có lẽ mấy chuyến vượt biển bị bể đã luyện con người tôi như vậy?!!
 
Đến trước cổng trại tù ghi tên giao đồ ăn, công an nhận hàng xong, chúng tôi vừa quay ra thì có người đàn ông đứng lấp ló trờ tới nói nhỏ:
 
- Mấy chị có biết Thiện và Dũng không? hai em đã bị về Kinh Làng thứ bảy
 
Tôi và Xuân đang ngạc nhiên thì người đàn ông ra dấu chúng tôi đi theo khoảng xa khuất cổng đồn, nhìn trước nhìn sau mới yên tâm nói
 
- Tui ở gần hai đứa, bán hàng trên ghe chèo quanh vùng, chúng nó hay mua kẹo bánh, tui lên đây mua hàng luôn tiện Thiện nhờ việc tìm giùm thân nhân, nếu các chị muốn đi thì xuống ghe về liền, tui đã mua hàng chất đầy ghe xong xuôi rồi.
 
Sau nhiều lần tiếp xúc với người lục tỉnh, tôi rất có cảm tình với họ vì tính hiền lành, thành thật của người miền Nam, nên chẳng nghi ngờ ngần ngại, chỉ tiếc giỏ thức ăn vừa đưa vào, nếu bây giờ khiếu nại họ sẽ làm khó dễ, lộ tẩy việc sắp làm nên đành thôi, ba bà cháu lặng lẳng đi theo người đàn ông bước xuống ghe máy.
 
Ghe tấp vào ngôi nhà gỗ rộng rãi, mấy trẻ nhỏ trố mắt nhìn người lạ, vợ ông nhoẻn nụ cười hiền lành chào đón khi ông giới thiệu là bà ngoại và chị của Thiện, Dũng. Tôi hỏi tên vợ chồng cho dễ xưng hô, họ bảo cứ gọi là Hai Ốc
 
- Hai chị và Ngoại cứ ở lại đây thăm các em, ở mấy ngày cũng được đừng ngại gì hết, có rau ăn rau, có cháo húp cháo.
 
Nói xong chị thúc chúng tôi đi rửa mặt, cho chúng tôi ăn bún Ốc, cùng rổ Ốc lớn hấp lá chanh chấm với nước mắm gừng thơm phức, chị khoe ngày nào cũng kiếm được Ốc hấp bán quanh đây, tôi đoán có lẽ anh Hai Ốc chuyên nghề lượm Ốc nên cái tên cũng quyện vào luôn.
 
Sau buổi ăn trưa anh Hai Ốc chèo xuồng tay chở tôi và Xuân qua ngôi nhà khác khai báo cán bộ công an về sự có mặt của ba người lạ. Ông ta độ ngoài bốn mươi tuổi, hình ảnh tôi hay thấy của dân miền Tây có chiếc răng bọc vàng trong miệng, ông mời uống nước sau khi chúng tôi ghi địa chỉ tên tuổi trong đơn theo thủ tục, ông hỏi thăm đôi điều xã giao và bảo ngồi chơi chờ Thiện, Dũng sắp về.
 
Khoảng ba giờ chiều hai em đi làm ruộng được về sớm gặp chúng tôi và bà Ngoại mừng rỡ, ông ta tránh mặt để chúng tôi nói chuyện tự nhiên. hai em cho biết Phan và Văn bị đưa về Kinh Làng mười một tức là rừng U Minh, và kể nhiều chuyện trong tù. Thiện chỉ chỗ trú ngụ nằm sau xa ngôi nhà này, chúng tôi nhìn theo hướng thấy ngôi nhà dài lợp tôn như chuồng ngựa chuồng bò, toán tù về dưới này khoảng mười người thanh niên, có ba phụ tá ông cán bộ canh chừng và dẫn đi làm ruộng hằng ngày
 
Nửa tiếng sau ông cán bộ xuất hiện vui vẻ nói
 
- Mai cho Thiện, Dũng nghỉ lao động một ngày ở nhà chơi với hai chị và bà Ngoại.
 
Chúng tôi lí nhí cám ơn, sau đó ông rủ đi lượm Ốc chung quanh vùng như là giới thiệu nơi chốn này, chúng tôi gởi Ngoại về lại nhà anh Hai Ốc. Trước đây có mưa vài ngày nên vẫn còn những vũng nước đọng, lúc chúng tôi đi trời lại bắt đầu mưa nhưng không lớn, càng đi xa hơn thấy Ốc nằm rất nhiều chen cỏ mọc, hoặc nơi mấy vũng nước cạn, chúng tôi tha hồ lượm. Ông cán bộ lùng tìm trứng cút, nói là “đem về biếu Ngoại luộc ăn”, bốn chị em hốt được bịch Ốc đầy nhóc, chưa kể hái trái keo cũng được bao lớn.
 
Trời sắp tối và mưa nặng hạt hơn, mọi người hối nhau ra về, ông cán bộ ngỏ lời mời ăn cơm tối bên nhà ông, nhưng chúng tôi từ chối nói “có chị Hai Ốc đang chờ cơm sẵn ở nhà”
 
Khoảng tám giờ tối, có người qua nhà nhắn ông cán bộ mời hai cô qua uống trà cho vui, chúng tôi ngần ngại định tìm cách từ chối thì anh chị Hai Ốc khua tay nói nhỏ
 
- Hai chị cứ đi đi, không có sao đâu, ông cũng hiền, dễ chịu và tốt bụng mới cho Thiện, Dũng nghỉ ngày mai mà
 
Lại thêm tiếng bà Ngoại nói vào
 
- hai con qua đi... Ngoại sẽ chờ mở cửa
 
Tôi và Xuân hơi hồi hộp, lúc họ chèo xuồng qua ao nước, tôi dặn nhỏ Xuân
 
- Ông có mời nước đừng uống nghe, đề phòng thuốc mê đó
 
Xuân và tôi cùng im lặng, cả hai đang cùng nghĩ ngợi lo lắng. Người thanh niên kia dẫn chúng tôi vào căn phòng phía sau, hình như chỗ ở của ông sau văn phòng làm việc. Trên bàn có dĩa bánh ngọt và chai rượu, ông cán bộ cười
 
- Mời hai cô qua nói chuyện cho vui thôi, tôi sẽ sai người chèo đưa mấy cô về.
 
Ông hỏi có biết uống rượu không? chúng tôi lắc đầu, ông mời ăn bánh đậu xanh và uống trà nóng... chúng tôi gật đầu nhưng chẳng ăn uống gì. Ngoài trời đang mưa, đêm đen như mực, người thanh niên hồi nãy đã biến đâu mất, ông cán bộ vừa rót rượu uống vừa kể chuyện đời ông, tôi chẳng có tâm trí để nghe, chẳng biết ông nói gì, tôi cứ liếc ngang dọc tìm phương hướng và đưa mắt kín đáo nhìn Xuân như ra dấu sẵn sàng tư thế tự vệ. Ông ta vẫn rót rượu, vẫn nói... bỗng nhiên ông nhìn tôi, ánh mắt lờ đờ
 
- Minh.. Minh... Minh
 
Tôi run lên rồi vùng đứng dậy co giò chạy, Xuân cũng chạy theo tôi, ra bờ ao thấy chiếc xuồng nhưng không biết chèo, đành chạy bán sống bán chết trên bờ đất quanh cái ao, chị em như hai bóng ma âm thầm chạy không nói một tiếng, đạp bùn sình văn tung toé, về đến nhà vừa thở hổn hển vừa gọi
 
- Ngoại ơi... ngoại ơi...
 
Hình như Ngoại vẫn chưa ngủ nên giọng nói có vẻ tỉnh táo
 
- ờ để Ngoại mở
 
Tôi càng cuống quýt hối thúc mở lẹ vì sợ ông chạy theo đến nơi, cửa vừa hé chúng tôi nhào vào cài then lại mới hoàn hồn, Ngoại hỏi gì cũng không nói, lặng lẽ đi lau chân và leo lên tấm phản ngủ chung với Ngoại, tôi lắng nghe có tiếng chân người đâu đó, hai đứa để tay ra dấu đừng lên tiếng, bước chân như đang quanh quẩn bên ngoài... nghe ngóng một hồi tôi ngủ say lúc nào không hay. Sáng thức dậy Ngoại gặng hỏi nhiều lần, nhưng hai chị em trấn an
 
- Không có gì đâu Ngoại
 
Ngoại nhìn chăm vào mặt hai đứa
 
- Con có nghe tiếng chân người bên ngoài và tiếng kêu tối qua không? Ngoại nghe gọi “Minh ơi, Minh ơi”... nhiều lần lắm
 
Chúng tôi công nhận có nghe tiếng chân người rồi sau đó ngủ say chẳng biết trời trăng. Ngoại cười chọc tôi
 
- Chắc thích con Minh rồi nên mới chịu khó đi tìm trứng chim Cút đem về biếu Ngoại ăn mà.
 
Chúng tôi dặn Ngoại giấu vợ chồng chủ nhà, sau đó Thiện và Dũng qua họp mặt, hai em kể liền.
 
- Sáng sớm nay cán bộ cho gọi hai đứa nhắc lại lời hứa là khỏi làm lao động, nghỉ nhà chơi với Ngoại, ông kể thêm tối qua có mời hai chị em qua uống nước trà, tự nhiên sợ cái gì mà đâm đầu bỏ chạy về, ông lo hai người chạy lạc không biết có về đến nhà, nên qua trước cửa gọi xem đã về chưa, nhưng không nghe ai trả lời...
 
Thiện quan sát tôi:
 
- Có chuyện chi rứa?
 
Tôi và Xuân lắc đầu
 
- Không có chi, chỉ là bị ám ảnh chuyện trong phim nên muốn tập diễn đó mà…
 
Hai em nheo mắt tinh nghịch chọc, nhất là Thiện quá thân với tôi nên nói tự nhiên
 
- Không ngờ hai ả ni xấu rứa mà mình cũng được nhờ… ngày ni khỏi đi gặt cỏ
 
Tôi cũng giỡn lại
 
- Rứa mới đáng nói, chứ đẹp mà chúng mày được nhờ là chuyện bình thường của kiểu “mỹ nhân kế”
 
Mọi người đều cười hết ga, chúng tôi cũng muốn tránh mặt ông cán bộ nên chơi đến trưa ăn uống xong, gởi chút tiền cho con anh Hai Ốc ăn bánh, cám ơn rối rít tấm chân tình của anh đã đưa về, cho ba người tá túc và lo thêm cơm nước. Anh Hai Ốc chở chúng tôi đến Kinh Làng thứ ba, tuyến đường về như cũ. Lần này tình hình có vẻ yên ổn vắng bóng công an, nên cả ba bà cháu được ngủ chung trong phòng trọ một đêm sáng sớm về Sài Gòn.
 
Tôi báo cho em gái Lộc biết Phan và Văn đã bị đưa xuống rừng U Minh đốn củi, Hạnh (em gái Lộc) và Phượng (em gái Phan) nhờ dẫn đường về Kinh Làng mười một, tôi lại tiếp tục dẫn hai cô em về tới rừng U Minh nếm muỗi chích một đêm dù được ngủ nhà khách của cơ quan, thanh niên về đó đốn rừng, vác củi cho nhà thầu của chính quyền địa phương, lần đi này tôi được may mắn không bị kiểm tra giấy tờ.
 
Ẩn Dật Chờ Đợi
 
Biết rõ thân phận mình hiện tại không thẻ Chứng minh, không giấy tờ tuỳ thân, ở đâu cũng là mối lo cho chủ nhà, đầu óc đang rối loạn sau khi tù ra, tôi đành trở về Bạc Liêu nghỉ ngơi một thời gian.
 
Tôi kể anh Dương, chị Mỹ (chị dâu) nghe mọi chuyện và dặn giấu Mẹ tôi, nhưng bà cứ nhìn soi mói và thắc mắc
 
- Ở trên Sài Gòn sao mà ốm và đen quá vậy?
 
Tôi chống chế
 
- Ở nhà mẹ Lộc đâu có làm gì mà đen
 
Một câu tôi cũng ca tụng Mẹ Lộc, hai câu cũng nói tốt nên Mẹ tôi tin và không hỏi gì nữa. Thời gian ở đây tôi liên lạc thư từ với Lộc, yêu cầu tôi lo hộ khẩu để Lộc làm giấy tờ bảo lãnh. Cũng kể thêm ngày Lộc đi vượt biên được tàu Tây Đức vớt đem về đảo Pulau Bidong, lúc làm giấy tờ thủ tục Lộc khai có vợ và điền tên tôi sẵn, qua định cư Tây Đức viết thư cho tôi biết điều này và muốn tôi có tờ hôn thú. Chị họ của Lộc đang có ông công an mê như điếu đổ, tôi nhờ chị mời được ba Công an đi ăn tối, sau đó họ trao mẫu đơn hôn thú có khuôn dấu và chữ ký sẵn của ông trưởng đồn, tôi chỉ việc về nhà điền tên vào. Nơi Bạc Liêu tôi cũng dò hỏi người em của chị dâu, cậu này quen biết móc nối được công an nên tôi chịu trả khoảng tiền dành dụm do Lộc gởi quà về để lo hộ khẩu. Anh Dương có vẻ ái ngại không muốn tôi nguy hiểm, khuyên chờ đi bảo lãnh, xin được bạn quen cho tôi dạy trường Tiểu Học hoặc đứng bán cửa hàng nhà nước, tôi bác bỏ chỉ muốn đeo đuổi vượt biên cho nhanh.
 
Công việc trở lại như cũ… ra chợ phụ chị dâu, về nhà lo cơm nước, chăm sóc các cháu cho mẹ tôi đỡ vất vả. Tôi gặp được chị Lam hàng xóm ngoài Huế vô đây lập nghiệp, anh chị đều bỏ dạy vì bị đổi về trường làng xa, đạp xe mỗi ngày mấy cây số, đồng lương đói rách tả tơi nên chẳng luyến tiếc, gia đình ông anh vào trước lập nghiệp, anh chị vào theo dò dẫm. Chị Lam rủ tôi chiều chiều ra Hợp Tác Xã ngồi chờ mua hàng lại từ những người có tem phiếu, tối đến trước hội trường bán thuốc lá. Tôi cũng chẳng thiếu miếng ăn những muốn thay đổi không khí cho đỡ nghĩ quẩn, nên xin chị dâu chỉ ra sớm phụ bán, sau hai giờ quán ít khách thì tôi biến, chị dâu cũng thấy tôi quá gian nan trong chuyện vượt biên, nên dù rất cần tôi vẫn vui vẻ chấp thuận.
 
Cửa hàng nhu yếu phẩm chỉ mở cửa sau một giờ, tôi và chị Lam ngồi đợi cùng số đông người, mua được gì đem vào chợ bán lại. Nhưng từ ngày vào nghề chỉ có ngồi chơi. Một hôm bà cán bộ thấy con buôn ngồi hoài, bà thương cảm bán hai thùng lốp xe, cử hai người đại diện vào thanh toán tiền, lấy hàng ra chia đều cho tất cả, có bà nhanh nhẩu đáp
 
- Đúng rồi tôi cần thêm người nữa đại diện vào lấy hàng
 
Mọi người nhao nhao muốn đưa tiền, bà ta bảo để ứng trước rồi ra tính sau, nhưng khi nhận hàng vừa xong, hai bà khiêng ra quăng trên xe lôi đậu gần đó, phóng người lên hối ông tài xế nổ máy chạy lẹ, số người chạy rượt theo vô chợ Nhà Lồng, số người đứng nhảy đong đỏng chưởi rủa, tôi và chị Lam sững sờ rồi lặng lẽ đi về, chị lắc đầu nói
 
- Ra chợ đời thấy sợ quá
 
Tôi vốn có bán nước cũng nếm nhiều cảnh giành giựt nên trấn an chị:
 
- Huế mình chịu cực chịu khổ quen rồi, về ăn chén cơm với nước tương vẫn ngon vì tâm hồn thanh thản
 
Thế rồi hai chị em không ra đó nữa, buổi tối tôi để ghế xếp, tấm đòn, hộp thuốc cùng hộp quẹt diêm trong giỏ lát rất gọn gàng rồi xách ra cổng hội trường gặp chị Lam, hai người ngồi hai bên cổng, đây là nơi có văn nghệ hay các đoàn cải lương về trình diện ngoài trời chứa số khán giả rất đông. Có nhiều lúc thấy nghệ sĩ Phượng Liên, hay ca sĩ Trang Thanh Lan về trình diễn, tôi cũng dọn hàng, mua vé cùng chị Lam vô cổng mở ghế xếp leo lên đứng xem. Đêm về khuya Mẹ tôi đi bộ đến đón, hai chiếc bóng lầm lũi bước về xóm nhỏ. Tôi bán những điếu thuốc lẻ cũng chỉ lượm bạc cắc, dù bán để định tĩnh lại tinh thần, đeo đuổi tiếp ước mơ, nhưng thấy hình ảnh Mẹ lo lắng đi đón con nên tôi cũng nghỉ bán, tiếp tục phụ chị dâu ngoài chợ.
 
Những tháng qua tôi chẳng nhận tin tức gì trên Sài Gòn, nóng ruột xách gói lên xem tình hình. Trên xe, tôi như người không hồn chẳng ăn uống suốt ngày, về Xa cảng trời tối, leo xe Lam cứ muốn xe chạy hoài chạy mãi… nhưng rồi cuối cùng cũng về liều cư xá Thanh Đa.
 
Anh tôi được lưu dụng làm ngành thuế nhờ một bác lớn tuổi hợp căn hợp mạng thương, luôn khuyến khích anh vào đoàn viên sẽ có nhiều quyền lợi, nhưng anh nhất định né tránh. Anh có quyển sổ đi công tác đã đóng sẵn khuôn dấu, tôi mừng rỡ khi thấy được nó, xé một tờ điền tên mình vào. Lần này về nhà Xuân, xui khiến nửa khuya công an đi kiểm soát hộ khẩu toàn khu cư xá Thanh Đa. Tôi đang ngủ say sưa thì Xuân vén mùng đập dậy nói
 
- Ra có công an hỏi
 
Tôi mắt nhắm mắt mở thấy hai công an đang chờ mình
 
- Xin Cô cho xem giấy tờ
 
Tôi lấy tờ “đi công tác’ ra đưa, hai công an nhìn rồi nói
 
- Xin cô đưa thêm thẻ Chứng minh nhân dân, thẻ công vụ
 
Tôi hết biết.. .bị sát chân tường phải nói liều thôi
 
- Tôi... quên đem theo
 
Hai công an nhìn nhau vài giây suy nghĩ, bỗng một người nói
 
- Chúng ta đều trong ngành nghề, để dễ dàng làm việc chung nên rút kinh nghiệm lần sau cô nhớ đem theo các giấy tờ đầy đủ
 
Tôi mừng hết lớn như vừa thoát chết
 
- Dạ cám ơn hai anh
 
Tôi không ngờ được thoát dễ dàng như vậy, “hình như có người âm luôn đi theo phù hộ mình” tôi nghĩ như vậy. Tội nghiệp Xuân luôn thương bạn hứng chịu bao phen đứng tim vì tôi.
 
Về Sài Gòn được biết Ôn Mạnh tháng trước có lên gọi đi gấp, tôi thẫn thờ tiếc nuối. Có con trai Ôn trong chuyến vượt biên đó đã đến Thái Lan, viết thư về kể ghe chỉ có mười lăm người, phụ nữ bị cướp Thái Lan hiếp và bắt cóc hai cô, tôi nghe với nỗi sợ hãi tột đỉnh và đau xót giùm các cô gái bị hãm hiếp, nhưng cũng bừng tỉnh nhẹ nhõm tạ ơn trời đất cho tôi cái may không có mặt trong chuyến đi đó.

Bốn tháng sau tôi lên Sài Gòn nghe ngóng tiếp, tin ôn mụ Mạnh đã đến đảo Thái Lan do người bà con cho gia đình Lộc biết làm tinh thần tôi càng suy sụp “vậy là hết chỗ bám, hết nơi nương tựa“, mọi thứ đau khổ chất chứa vẫn đè nén tận cùng. Về nhà Xuân, bất ngờ gặp Thiện đã trốn tù về được nửa tháng, gặp em thật mừng rỡ, Thiện kể chi ly…
 
- Gia đình chú G ngày xưa là lính VNCH, sau khi cải tạo tù về bị ép buộc đi kinh tế mới, chú dẫn vợ con về gần chỗ Thiện bi giam (kinh làng bảy) làm ruộng, bắt óc mò cua sinh sống qua ngày. Tình cờ Thiện làm ruộng gặp chú và tìm cách liên lạc thường xuyên. Một buổi sáng như thường lệ phải dậy đi ra ruộng, nhưng Thiện vờ ôm bụng đau la dữ dội, nên được cho nghỉ nằm nhà dưỡng sức, Ông G sắp xếp sẵn lấy ghe máy đưa Thiện đi trốn…
 
Nghĩ chuyện Ôn Mụ Mạnh đã đến Thái Lan, hai chị em chẳng biết nói chi ngoài tiếng thở dài ...
 
Về lại Bạc Liêu... ngày tháng vẫn dài như những đêm đen mùa đông, tôi như cái xác không hồn sống qua từng giờ phút tuyệt vọng, những chiều tối ẵm cháu đi ra cầu Quay hóng gió, nhìn giòng nước đục lặn lờ, ký ức lại miên man về Huế, về những con đường thơ mộng, nhớ ngôi nhà sân vườn thân yêu, nhớ những buổi chiều vàng ngồi bất động cùng bạn nơi quán cà phê của nhà Lộc nhìn xác Phượng đỏ bâng khuâng thả hồn theo bản nhạc Serenata (Chiều Tà) lời Việt Phạm Duy, êm dịu bên tai tiếng hát Thái Thanh
 
Lắng trầm tiếng chiều ngân
Nhạc dặt dìu ái ân
Người ôi! Nhớ mãi cũng đàn
Năm tháng phai tàn
Duyên kiếp vẫn còn lỡ làng
 
Lòng tôi tìm được cảm giác dễ chịu, tâm hồn chơi vơi theo lời nhạc, phải có chút tâm hồn thì mới có thể quên được cảnh khổ, cảnh nghèo, cảnh thực tế của cuộc sống, tôi cám ơn những giây phút đã vỗ về an ủi trong lúc này.
 
Chẳng thể ngồi yên để mù tịt tin tức trên Sài Gòn, thỉnh thoảng tôi vẫn lên về dò dẫm được biết thêm nhiều tin mới, Thiện đi tổ chức khác đã lọt đến Mã Lai, Dũng chung trại với Thiện nhân có công tác đi mua hàng cùng vài anh cai quản tù, cũng trốn thoát nơi bến xe, về đánh chuyến tiếp và thoát lọt được tàu Singapore vớt, hai chú cháu Phan, Văn đã được thả tù từ rừng U Minh. Phan đánh chuyến vượt biên khác bị bắt và ở tù vùng Bà Rịa. Văn bỏ cuộc vượt biên, chờ đợi Mẹ bảo lãnh.
 
Nhiều sự kiện làm đầu óc tôi bần thần, lại càng suy sụp thêm khi biết cô em gái họ của Lộc ra đi không có tin tức cả năm, hai cháu gái Lộc cũng mất tích, anh chị bà con bị cướp Thái Lan hành hung giết chết người chồng. Tôi vẫn tiếp tục những chuyến xe ngồi bất động chỉ muốn chạy mãi không bến đỗ, vì chẳng biết đi về đâu...
 
Tháng Sáu năm 1984, em Lộc đánh điện tín nhắn tôi lên gấp, vì gia đình chuẩn bị đi Mỹ theo diện bảo lãnh. Mẹ Lộc ái ngại nhìn tôi, sau đó bà dẫn tôi đến nhà chị họ của Lộc tên Nguyệt, hai người to nhỏ điều gì trong bếp tôi không nghe, sau đó chị Nguyệt lên nhà tươi cười với tôi
 
- Mợ mượn chị cây vàng, em tìm chỗ nào đi được, bên Mỹ đánh điện về chị sẽ chồng vàng cho họ, cứ dẫn họ đến tiệm vàng chị để lấy lòng tin
 
Tôi chợt “thấy ánh sáng cuối đường hầm” ý chí bùng lên mạnh mẽ. Gia đình Lộc đi rồi, tôi về nhà Cô Nga ở ẩn trong bếp nấu ăn. Nhờ về Bạc Liêu học nấu những món ngon chị dâu dạy, nên ra tay thực hành, không ngờ các em và Cô Chú khoái quá, chẳng còn ngại công an, chỉ dặn tôi thấy khách đông đừng ra ngoài, riêng phần tôi cũng thấy dễ chịu có việc nấu ăn không bị mặc cảm ăn bám.
 
Tôi tiếp tục dò hỏi, cũng có gặp vài mối, họ đòi đưa trước tiền, có nơi đòi đưa trước năm chỉ, nhưng tôi có phiêu linh không tin tưởng nên tránh tham gia. Tôi đang còn tìm kiếm thì Phan may mắn được thả tù, người xơ xác và buồn rầu vì Hạnh đã đi. Phan hứa nghỉ ngơi thời gian, nếu có gì sẽ cho tôi hay.
 
Mùa Noel năm đó Phan lái xe về nhà Cô Nga báo tin tôi biết có đường dây và hẹn ngày mai đi gặp ông chủ tàu. Phan dẫn tôi đến một ngôi nhà khang trang gặp cặp vợ chồng người Bắc tên Thắng trạc ngoài sáu mươi, tướng ông rất hồng hào phương phi, mặt mày nghiêm nghị. Nghe Phan trình bày muốn xin tôi một chỗ, ông lắc đầu lạnh lùng “không còn chỗ”, Phan ra chiêu năn nỉ nhưng ông vẫn lắc đầu lập lại “không còn chỗ”. Hai ngày sau Phan lại dẫn tôi đến năn nỉ tiếp, lần này tôi lên tiếng kể lể kèm theo những giọt nước mắt, người vợ có vẻ động lòng nói chồng
 
- Anh gắng giúp cho Cô một chỗ đi, tội nghiệp Cô
 
Ông chồng lưỡng lự
 
- Để tôi xem, bây giờ về đi, có chuyện gì tôi nhắn với Phan
 
Tuần sau tôi được nhắn đến, lần này bà vợ nói chuyện với tôi
 
- Giá cả là hai cây vàng đưa trước, không cần mang gì theo vì trên tàu đã lo lương thực, thuốc men đầy đủ
 
Tôi nghe hết hồn nhưng cũng năn nỉ nhẹ nhàng
 
- Gia đình em chỉ có thể đưa trước một lượng, phần còn lại sẽ có người chị giao tiếp khi có điện báo tin em đến nơi.
 
Tôi mời hai vợ chồng cùng xuống tiệm vàng đường Trương Minh Giảng gặp chị Nguyệt, chị tiếp đón niềm nở gọi mấy ly sữa đậu nành nóng mời khách
 
- Nhờ bác cố gắng giúp em đi... ”học nghề” đến nơi đến chốn, em sẽ chồng vàng đàng hoàng không thiếu một phân.
 
Ông chủ im lặng không nói gì nhưng tôi thấy nét mặt ông lộ vẻ vui tươi hiền hoà, tỏ vẻ tin tưởng phần tôi
 
Trở về Bạc Liêu tôi bắt đầu lo lắng, vì Lộc gởi lai rai quà cho tôi chẳng dám tiêu pha, chỉ tốn kém tiền xe những lần lên xuống (Sài Gòn-Bạc Liêu) và lo hộ khẩu, hiện chỉ còn năm chỉ vàng lúc thêu ngoài Huế tôi dành dụm được. Không hiểu sao nhìn người đàn ông này như có lực mạnh làm tôi tin tưởng, tôi suy nghĩ chỉ có cách mượn mẹ hoặc anh thêm một cây vàng nữa. Tôi trình bày mọi việc với chị dâu trước
 
- Gia đình Lộc đi rồi, Mẹ Lộc cho một cây vàng, đã tìm được đường dây khác đòi đóng hai cây, điều kiện bảo đảm khi có điện tín báo tin mình đã tới đảo thì mới chồng vàng, hiện tại số vàng đang nhờ chị Nguyệt (chủ tiệm vàng) giữ giùm
 
Chị dâu vừa nghe nói là hăng hái
 
- Cô đi đi... đường dây này tốt đó, để tui nói anh Dương
 
Chị dâu to nhỏ gì với anh tối lại anh gọi vào góc bếp đưa gói kín
 
- Tôi đưa Cô một cây rưỡi, Cô gởi chị Nguyệt, dư năm chỉ vàng đem theo qua đảo sinh sống, nghe nói ở đó sống khổ cực lắm
 
Tôi chỉ lấy một cây vàng
 
- Em cảm ơn anh, nhưng nếu lọt rồi thì không sợ, người ta sống được mình sống được, chẳng chết đói đâu mà
 
Mẹ tôi tình cờ nghe cuộc nói chuyện giữa tôi và anh chị, nét mặt trầm ngâm lộ vẻ lo âu, hôm sau đến gần tôi nói nhỏ
 
- Con nên ăn chay, tránh nợ máu súc vật trong giai đoạn này để cơ thể tinh tấn thì sự cầu nguyện có linh ứng hơn.
 
Tôi đang căng thẳng đủ thứ và lo nhiều việc trước khi lên Sài Gòn, vả lại trước đây cũng hư lắm, ngày Rằm hay Mồng Một theo chay được nửa buổi, chiều cũng phá giới ngả mặn. Mẹ thấy tôi thờ ơ chẳng quan tâm nói gì, hôm sau mẹ ăn một món dưa cải chua với cơm và nói
 
- Mẹ nhất quyết ăn chay một tháng giùm con để nguyện cầu.
 
Đầu óc tôi bấn loạn, chẳng còn tâm trí phải lật đật đi, ngồi trên xe nước mắt ràn rụa nhớ chuyện mẹ ăn chay thế tôi lòng đau thắt lại. Lên thành phố tôi đến nhà ông chủ tàu giao lượng vàng rồi về nhà Cô Nga chờ ngày gọi. Tâm hồn tôi bắt đầu dày vò ray rứt vì đã nói láo. Hình ảnh anh Dương mỗi sáng nhịn ăn mua mấy gói xôi cho Mẹ và con, tôi biết anh chị không có tiền, chỉ là của Mẹ tôi cất kỹ giao cho người con trai thương nhất, vậy mà bây giờ tôi dám giao người xa lạ, họ lật lọng cũng chịu chứ biết làm gì, tôi đang đánh bạc mà... Tâm trí tôi dằn vặt, lòng tôi lo sợ mất ăn mất ngủ nào ai biết. Tất cả mọi việc về tôi luôn được giấu kín, từ chuyện tôi trốn chui trốn nhủi công an ở nhà Mẹ Lộc, vô tù ra tội. Mẹ luôn kính trọng Mẹ Lộc khi nghe tôi kể được yêu thương, được lo lắng bỏ tiền cho đi nhiều chuyến, nói chung dưới mắt Mẹ lúc đó tôi là kẻ sung sướng, may mắn và hạnh phúc.
 
Gần nhà Cô Nga có ngôi Chùa, tối nào tôi cũng ra tụng kinh, sau đó đứng trước sân có hình Phật Quan Thế Âm Bồ Tát đốt nắm hương khấn nguyện:
 
“Lạy Phật cho con đi lọt chuyến này, nếu không lọt thì chết sông chết biển, vì con không muốn sống nhìn các cháu, anh chị, Mẹ mình sống cơ cực thiếu thốn, con sẽ không có can đảm nhìn gia đình như vậy, con sẽ bị điên loạn.. xin ơn trên thương xót giúp con lần cuối...” Tôi không còn biết gì nữa, chỉ biết ngẩng mặt lên nhìn Phật, khấn say sưa mỗi tối như người khủng hoảng.
 
Trở về nhà xem ti vi chiếu những cấp Tá của QLVNCH mặc bộ tù sọc đang đứng nơi toà án bị còng tay xử tội, lòng tôi buồn vô hạn, gan tôi như muốn cháy khi nghe Việt Cộng đọc tội trạng nào là đường dây phá hoại bị bể, nào là định lật đổ chính quyền...v..v... Em nhỏ mười tuổi con Cô Nga vỗ tay
 
- Địch bị bắt rồi, hoan hô…
 
Tự dưng tôi nổi quạu lôi nó vào trong giận dữ
 
- Em có biết địch là ai không? là ba của em đó, Việt Cộng mới là kẻ thù…
 
Em nhìn tôi lấm lét, ánh mắt ngơ ngác không dám hó hé gì nữa
 
Lênh Đênh Biển Cả
 
Đầu Xuân 1985 khi mọi người đang chuẩn bị ăn Tết. Tôi xin chiếc quần đen cũ, cái áo có vá của cô em họ, đội chiếc nón lá rách, một chiếc túi vải có dây đeo chứa cuốn băng vệ sinh, chai thuốc đỏ, bộ quần áo cũ khác và một áo mưa được nhét dưới giỏ lát, trên giỏ để ổ bánh mì. Ra ngã tư leo xe lam đậu sẵn, xe còn chờ khách thêm vì chưa đầy chỗ. Loa phóng thanh cài trên các cột đèn vang vang
 
“Tại Châu Đốc khám phá ngôi Chùa... có súng đạn và lương thực giấu dưới ghè tương, tại nơi kia bọn phản động định chiếm đài phát thanh, tại nơi nọ bọn Nguỵ và tay sai rải truyền đơn khắp cùng, tại Vũng Tàu bắt được tàu mang biển số đánh cá Phan Thiết ...v..v...”
 
Bình thường các ông bà nói chuyện nhao nhao, hôm nay không nghe ai nói gì, xe đầy chỗ mà ông tài xế cũng chẳng hay, nét mặt tư lự đăm chiêu, mỗi người khách đều chăm chú lắng nghe với vẻ trầm ngâm buồn bã như niềm hy vọng nuôi dưỡng của người dân miền Nam vừa bị dập tắt.
 
Ngồi trên xe với bao nhiêu nỗi ngổn ngang trong lòng, bên ngoài dòng người mua bán đông đúc, hoa Cúc hoa Mai sáng rực, bánh mứt chưng đầy hai bên chợ, tôi có linh cảm như được nhìn lần cuối quê hương yêu dấu. Bước xuống xe lam, đi bộ một đoạn đường mới đến nhà ông chủ tàu, ánh mắt tôi lưu luyến những hình ảnh thân yêu nhất, quen thuộc nhất mỗi độ Tết về.
 
Tôi được ông Thắng giao tấm thẻ đỏ có ghi tên ông, dặn khi lên tàu người soát vé hỏi thì đưa, ông cũng cho biết Phan có nhiệm vụ đã đi trước hai ngày rồi. Nằm nghỉ nhà ông đến tối, vợ ông dẫn tôi tới nhà người quen của bà. Tôi được đưa vào buồng trong có sẵn cặp vợ chồng trạc tuổi tôi kèm theo bé gái độ hai tuổi. Tiếng đồng hồ sau xuất hiện người đàn bà dân miền Tây, mặc áo bà ba dáng người khỏe mạnh lanh lẹn, khoảng ngoài ba mươi tuổi bước vào phòng nhìn quanh hỏi
 
- Còn người nữa đâu
 
Chúng tôi đang ngơ ngác thì có cô gái đẹp sắc nước hương trời chạy vào, người đàn bà lên tiếng
 
- Như vậy đủ rồi, tôi lo nhóm bốn người đây, ngày mai đúng sáu giờ mọi người có mặt bến xe Mỹ Tho, tôi sẽ vào quán hủ tiếu, các anh chị làm kẻ xa lạ vào theo ngồi riêng rẽ ăn uống, khi tôi bước ra khỏi tiệm hãy bước theo, xếp hàng mua vé cố gắng đứng gần nhau, nếu đến phiên xui hết vé phải nhảy theo xe đó mua vé chợ đen. Tôi yêu cầu xe ngừng khúc nào để bước xuống, các anh chị nhớ xuống theo, chúng ta sẽ đi bộ đoạn đường xa vào chợ Mỹ Tho, các anh chị có quyền đi vòng vòng quanh chợ, nhưng phải theo dõi bám sát tôi, đúng 4 giờ tôi ra khỏi chợ đi về bến đò lên ghe máy, các anh chị lên theo…
 
Cô Taxi dặn kỹ càng chi tiết xong rồi ra về, chúng tôi nằm chung trong phòng, chủ nhà vào dặn “sáng mai sẽ đánh thức dậy 5 giờ”. Buổi sáng trời còn tối, chúng tôi chia hai, tôi đi chung cô gái đẹp tên Nhung gọi xích lô tới bến xe, ông xích lô tò mò hỏi này hỏi nọ, chúng tôi né tránh chỉ nói về quê thăm họ hàng. Đến nơi chúng tôi tản ra, 10 phút sau Cô Taxi (tiếng lóng “đưa rước”) xuất hiện đi vào quán hủ tiếu, mấy người kia cũng bước theo ngồi mỗi góc, tôi lựa bà bán xôi đối diện tiệm ăn, ngồi xuống mua một gói vừa ăn vừa nhìn vào tiệm canh chừng. Khi Cô Taxi bước ra khỏi tiệm, thấy Cô nhìn dáo dác và đi chậm lại, tôi biết Cô có ý tìm tôi, nên tôi đi nhanh ngang qua mặt Cô, Cô liếc rồi bước tiếp.
 
Chúng tôi mua vé về Mỹ Tho, đến địa điểm gần chợ Cô Taxi nhảy xuống, chúng tôi nhảy theo. Mọi người lầm lũi đi khoảng cách Cô đoạn từ đường quang vào trong khá xa mới đến chợ. Mọi người tự do vòng vòng quanh chợ nhưng vẫn bám theo cô Taxi, thấy Cô đứng mua tôm cá, tôi chen mặt vào lựa mua, cốt ý để Cô thấy, tôi cũng mua rau, bánh mì ổ dài bỏ trên mặt giỏ lát.
 
Đúng 5 giờ chiều, Cô đi ra khỏi chợ đoạn xa rồi lên ghe máy chở khách, rất đông người cũng lên theo, có cả mấy ông xách vịt la ơi ới “cho tui đi với” lúc họ đến trễ. Ghe chạy khoảng 20 phút bà con gọi ghé bến để đi vào làng. Cô Taxi có ghe máy đậu ở đó bảo mọi người lên hết, lúc này tôi mới để ý có những thanh niên đi từ đường ngoài cùng chúng tôi xách chiếc giỏ lát hồi trưa, mấy ông mua vịt xách giỏ có các thứ nấu canh chua... thì ra cũng giống như chúng tôi.
 
Ghe chạy rất xa tới lúc trời gần tối tấp vào một ghe đang đậu nơi vắng vẻ, có anh chàng ngồi trên đầu ghe đưa tay ra dấu hiệu mọi người sang qua. Chui xuống ghe có số người ngồi sẵn, vài người vác con nhỏ khóc lóc, một bà la mấy bà Mẹ
 
- Dỗ chúng nó đi, muốn chết hết cả đám hay sao
 
Các cháu vẫn vùng vằng khóc ré, người đàn bà đó hét lên “đưa qua đây lẹ”, rồi bà đổ trong miệng trẻ thuốc bột trắng, tôi đoán là thuốc ngủ, quả thật sau đó các cháu ngủ mê man không động đậy.
 
Lần lượt có nhiều toán khác tấp vào, khi có tiếng chân đi trên đường thì thanh niên ngồi ngoài canh gác đập mạnh vào ghe
 
- Im lặng hết, đang có người đi tới
 
Tối đó hình như có đoàn cải lương về làng trình diễn, nên nghe bước chân người đi rất đông, họ nói chuyện gánh hát nào đó, họ ca cải lương, ngang qua ghe có tiếng hỏi:
 
- Ghe chở gì mà đậu ở đây vậy anh?
 
- Ghe chở muối anh ơi, ở làng bên qua đây vớt muối được hai ngày đem ra chợ họ trả rẻ quá chưa muốn bán, định dừng đây nghỉ qua đêm có lẽ mai trở lại bán
 
Tiếng chân gần rồi xa, xa rồi gần..., chúng tôi ngồi nín thở bên nhau ngủ gật ngủ gù, nửa đêm người thanh niên mới cho từng người ra tiểu tiện. Tôi nhìn những bà Mẹ ôm con bụng nghĩ dại... vì thấy các cháu ngủ li bì chẳng thức dậy, đến nước liều rồi các bà Mẹ cũng như cái bóng không còn hồn nữa.
 
Một ngày một đêm nhiều ghe tấp tới từng đợt. Đúng 5 giờ chiều ngày sau, có ghe ông chủ tàu đến, nhảy lên hỏi anh thanh niên
 
- Đủ cánh chưa
 
- Dạ còn thiếu một ghe nữa phe ông B…
 
Ông Thắng khua tay
 
- Bỏ... không còn kịp giờ
 
Tiếng máy ghe nổ lớn, tiếng người khóc lóc van xin
 
- Đợi chồng con tôi tới với, trời ơi... bị bỏ lại rồi
 
Mặc tiếng gào thét, tiếng máy vẫn nổ ồn ào trong đêm tối gió lạnh ngắt… Lòng lo lắng kiểu đi hôi giành giựt dễ bỏ lại mình như nhiều người thường kể, tôi bắt đầu mò lấy chiếc túi vải có dây quàng chéo vào người, bỏ lại giỏ lát các thứ mua linh tinh nơi chợ và chiếc nón rách. Tôi mon men bước lần ra phía cửa, có tiếng Nhung kêu trong bóng tối “chị Minh, chị đâu rồi” tôi lên tiếng để Nhung mò bước gần tôi.
 
Bỗng nhiên tôi thấy ghe kề một tường thành cao chót vót, thì ra là tàu lớn, có những người mặc quần áo bộ đội rọi đèn pin xuống hét
 
- Cánh ai?
 
- cánh Thắng
 
- cánh B…
 
Tôi chồm đưa tay lên có bàn tay chụp lấy hỏi to và tôi la lên “cánh Thắng”, được gã đàn ông kéo mạnh người tôi văng qua thành rớt xuống, tôi thấy phía đàn ông không được kéo phải tự động bò leo lên, Nhìn quanh thấy Nhung, vợ chồng Cường đi chung cũng có mặt, lòng thấy phấn khởi, sau đó chúng tôi bị lùa xuống hầm sâu, chỉ trừ ai có con nhỏ không bị đẩy xô.
 
Trong chớp nhoáng hầm đóng chặt kín mít, người chật cứng chẳng thấy ai là ai, tiếng máy nổ ầm trời, tôi bị lớp người đè chần lên thân sát vào máy móc, mùi xăng dầu bốc ra nghẹt thở, tiếng la hét, nhào qua lăn lại, nước vào ngâm nửa người lạnh ngắt, đầu óc lung linh, muốn chống đỡ lớp người chúi qua chúi lại nhưng toàn thân mềm nhũn yếu ớt không đưa tay lên nổi, tôi bắt đầu ói vào mặt mũi ai đó, tất cả cùng nhau ói... Tôi bỗng đau bụng dữ dội, đau kiểu mỗi lần có kinh nguyệt, buốt nhói tê lạnh cả người, mùi hôi tanh của máu xông lên càng làm tôi nôn ọe, nhưng chỉ toàn trào ra nước chua lè, có tiếng Nhung thì thào đâu đó
 
- Chị Minh cho em xin băng vệ sinh
 
Tôi run tay cố mò mẫn nhưng túi xách đã giạt mất đâu, và hình như tôi cũng đang có kinh, điều không thể ngờ được tôi vừa hết kinh tuần trước, tôi cố nói được chữ “mất rồi”, ngực tức vì hơi khí của máy nổ, chung quanh toàn nước nhờn nhớt, họ ói lên đầu tôi, tôi ọe vào người họ, tôi thở khó khăn, nghe bên tai những tiếng hét:
 
- Mở nắp hầm ra, sắp chết rồi, mở ra, mở ra...
 
Tàu vẫn chạy hình như bên ngoài chỉ có tiếng vũ bão quay cuồng, tôi mơ màng nhớ đến Ba, nhớ Mẹ... hai khuôn mặt hiện ra trước mặt, tôi như đang thì thào “giờ này Ba Mẹ đang làm gì, con sắp chết rồi Ba Mẹ có linh cảm gì không, con sắp chết rồi... ba mẹ ơi...”. Tôi lụi sức chập chờn nửa tỉnh nửa mơ giữa tiếng nôn ọe liên tục, giữa những cơn nhào lộn khi bị tàu lắc nghiêng ngã, nhồi tôi như mớ bông gòn..., tôi mê thiếp đi với tấm thân mềm nhũn...
 
Thức giấc giữa phút im ắng, không còn nghe động cơ ầm ĩ, ánh sáng lọt vào khi nắp hầm được giở lên, tiếng chưởi rủa không ngớt, tôi thật sự không tin mình còn sống, còn thấy ánh nắng chan hoà. Tôi nghe có tiếng chồm xuống hầm
 
- Cho tôi hỏi có chị nào tên Minh ở dưới hầm không? (nào ai biết tôi?)
 
Tôi nhận ra giọng Phan nhưng không lên tiếng được
 
Mọi người nhảy hết lên bong tàu, tôi cũng lết lên theo thì thấy Phan cùng nhiều người mặc bộ xanh đậm như đội kỹ thuật, bà cho trẻ nhỏ uống thuốc mê lúc ngồi trong ghe lên tiếng chỉ huy mọi điều, thì ra là bà chủ có phần hùn chung trong chuyến đi này, gia đình bà ngồi tầng cao trên cabin
 
Tôi lựa gần cột sắt ngồi dựa vào hít thở không khí thoáng đạt. Ông tài công cho biết tàu đã bị tắt máy (nghe đâu ông là Thiếu Tá Hải Quân VNCH đi tù về), vài người loay hoay xem máy móc, xem địa bàn, tuyên bố tàu đã ra khỏi hải phận sau hai ngày hai đêm chạy nhanh. Nước dưới hầm vào nhiều, một số đàn ông nhảy xuống dùng gàu múc nước tát ra, số người đứng xúm lại bàn tính tìm phương cách. Lúc đó mọi người mới nghĩ đến chuyện ăn uống, họ kiểm soát lương thực thấy có củ đậu sắn đã bị hư hết, chỉ còn bánh tráng sống. Một chị đứng ra lo ẩm thực lấy mỗi miếng bánh tráng xé làm bốn chia mỗi người một phần tư, một ông kiểm soát nước chỉ có một thùng, ông lấy ống đựng thuốc bề cao bằng ngón tay giữa, đổ nước đầy vào trong rồi tuyên bố
 
- Số nước quá ít, chỉ uống cầm cự thôi, ống này cho ba người, mỗi người mỗi hớp.
 
Tôi thấy ông đưa chuyền từng người, họ làm đúng theo lời ông, ông lại đổ đầy và đến phiên tôi, chẳng nói gì tôi uống ực hết cả ống, có mấy người “..ô...ô..” và tiếng ông hét lên cùng con mắt trợn dọc:
 
- Cái Cô này không nghe tôi dặn hay sao hả?
 
Tôi nhìn ông như người đang ngồi thiền, không nói, không nghe, có nhìn cũng như không, vì thật sự tôi đã đuối quá, nếu không uống ống nước đó có lẽ tôi sẽ xỉu, chỉ một ống nước như thuốc hồi sinh, trợ giúp cơ thể tôi tỉnh táo vô vàn. Tình cờ có cô nào leo lên ngồi cạnh, cô nhìn tôi rồi mở gói đưa ít sâm lát bảo ngậm vào, cô hỏi chuyện làm quen, được biết tên cô là Phi bằng tuổi tôi
 
Qua ngày thứ ba, thứ tư, tàu vẫn tiếp tục theo sóng lềnh bềnh khi giạt ra hải phận, tôi thấy tàu lớn tàu nhỏ rất nhiều, niềm hy vọng vươn lên nhưng chẳng được đến gần tàu nào, qua đêm tàu bạt vào hướng Cà Mau, sáng ra về hướng Bạc Liêu, Phan ở trên tầng cao nhất lò dò xuống dặn tôi
 
- Nếu tàu có tấp về đâu, ai thoát được thì nhớ nhắn cho người nhà biết
 
Tôi càng hồi hộp, lòng ngổn ngang và ước muốn như lời hằng đêm khấn vái trước tượng Quan Âm. Một tuần kế tiếp tàu vẫn lênh đênh… mọi người hầu như đuối sức và tuyệt vọng, tiếng con nít khóc đến khàn hơi luôn, mấy chú thanh niên thèm ăn, nói suốt ngày món này, món kia, uống ly bia, ly trà đá....v..v... Tôi cứ mơ màng thấy ly trà đá nhà Cô Ngọc mỗi trưa ngồi dùng cơm, ly trà đá ám ảnh chập chờn khi thức và lúc mê đến nhức đầu vì khao khát, may bạn Phi cho tôi ngậm sâm lát tiếp tục.
 
Nhiều lần tàu giạt tới mấy mỏm đá thật nguy hiểm, bà con vẫn nhận mỗi ngày hai hớp nước và nửa miếng bánh tráng sống nhai cầm cự, tiếng người than, tiếng kẻ muốn quay trở về thà bị tù nhưng còn sống, mà tàu không chiều theo lòng ai, nhiều thanh niên đói quá muốn nhảy xuống biển bắt cá lên nướng ăn nhưng bị cản lại.
 
Chiều ngày thứ mười, tài công đặt ống nhòm bỗng la lên “có tàu rồi”, mọi người mừng rỡ, ai cũng mở lớn mắt theo dõi, chờ đợi tàu từ từ tiến lại, nhưng khi tàu đến gần bỗng có người hét lên
 
- Chết rồi tàu Việt Cộng, bà con nằm sát, úp mặt xuống kẻo trúng đạn
 
Tất cả mọi người trên tàu tái mặt, nằm cúi sát, tôi chỉ biết nhắm ghiền mắt chờ chết nhưng hai phút sau tôi cũng hé mắt tò mò nhìn... tim đập mạnh, tay chân run rẩy... trước mắt toàn màu xanh bộ đội ra đứng nhìn chăm vào tàu chúng tôi, tôi lại nhắm mắt tiếp tục “chuyến này chết thật rồi”. Chờ đợi... đợi chờ hoàn toàn im lặng, có tiếng người nói “họ đi rồi” tôi mở mắt ra thì thấy tàu Hải Quân Việt Cộng xa dần, chẳng ai hiểu..?!!! có những tiếng bàn luận
 
- Chắc họ bận đi công tác ở đâu nên không thể áp tải mình về..
 
Một phen hú hồn... tàu lại tiếp tục lơ lửng, bồng bềnh nổi trôi trên nước, mắt tôi lạc thần, ngồi nhìn sóng nước như cái xác không hồn, trước mắt chỉ thấy ly trà đá to màu vàng nâu tuyệt vời... tiếng người đàn bà nói lớn thức tỉnh tôi
 
- Tui đang ngủ mơ màng tự dưng thấy có con cá voi lớn lắm tới bè tàu mình đi…
 
- Chắc có điềm tốt, thôi bây giờ chúng ta cùng cầu nguyện theo đạo của mình…
 
- Để tui ngồi yên khấn Phật Bà Quan Âm, khấn Trời Đất
 
Họ bàn tán xong rồi cùng im lặng... bên Công Giáo đọc kinh lớn, bên Phật giáo niệm lâm râm...
 
Buổi chiều vẫn còn nắng gắt, từ xa thấy một chấm đen rất nhỏ, đàn ông lại đặt ống nhòm với niềm hy vọng, mọi người hướng theo chăm chú, chấm đen từ từ lớn dần, đàn ông đốt giẻ cũng như đàn bà bồng con nít đưa lên cao ra dấu hiệu cầu cứu... Chiếc tàu đến nhưng giữ khoảng cách xa, hai người đàn ông quẳng thúng nhảy xuống chèo qua quan sát, họ nhận ra người Việt Nam với nhau và nhảy lên, qua vài câu hỏi họ biết là tàu vượt biên, trước tiên họ chở qua thùng nước.
 
Thừa lúc mọi người xúm lại nói chuyện, tôi chụp lon sữa bò của ai đã dùng sạch, nhào tới kéo vòi nước đổ đầy lon uống một hơi hết cạn. Tôi không ngờ sau khi uống lon nước xong giống một phép tiên, người hoàn toàn tỉnh táo ví như kẻ sắp chết đuối được hồi sinh, và thích thú nhìn bà con xúm lại giành nhau rót uống sau đó.
 
Thì ra đây là tàu đánh cá của người Phan Thiết, mỗi năm họ đánh cá hai chuyến, trở về phải nạp thuế cho cục hải quan. Nét mặt họ chất phác nói cho mọi người nghe
 
- Tàu mấy anh chị đi vượt biển không đúng tiêu chuẩn, vì là tàu mui tròn chỉ dùng để đi sông, may mắn chưa bị lật hoặc tông vào núi đá. Chúng tôi rất rành đường biển, có nhiều lối như ngã bảy là nơi tàu bè ngoại quốc buôn bán rất đông, ngã hai, ngã ba là hướng cướp biển Thái Lan thường lộng hành, chúng tôi có thể giúp kéo tàu ra ngã bảy, nếu quý vị đảm bảo lo cho chúng tôi đủ tiền đóng thuế.
 
Cả tàu mừng rỡ… có vài người đại diện kêu gọi gom tiền và vàng biếu các anh. Đợt một, đợt hai, đợt ba… sau khi các anh đánh cá kiểm lại số tiền vàng tạm đủ cho phần nộp thuế, họ vui vẻ chuyền thức ăn, nước uống và dùng sợi dây thừng rất lớn nhảy qua tàu chúng tôi cột nối đuôi tàu họ, rồi yêu cầu người già con nít qua bớt tàu họ vì thấy bên này người quá đông chật.
 
Đêm đó chúng tôi hơi bình tâm, vấn đề đói khát đã được thỏa mãn khi họ câu cá thu nấu cháo, nấu bí đỏ chuyền sang, mọi người đều tỉnh táo tăng lên nguồn hy vọng. Cũng nói thêm từ khi tàu tắt máy thì ban ngày tôi vẫn ngồi trên tàu tầng giữa kề cửa của gian phòng trong (hình như gia đình bà con chủ tàu), đêm nhảy xuống hầm để trọng tải chiếc thuyền được cân bằng, mọi người vẫn thay phiên nhau tát nước ra.
 
Tàu đánh cá kéo tàu chúng tôi ra khỏi hải phận đúng một ngày một đêm, các anh thả neo tàu chúng tôi. Họ cũng tâm sự rằng vì quen nghề đánh cá, ít học nên sợ qua các nước không biết làm gì sinh sống, vì vậy chưa bao giờ có ý định vượt biên. Nét mặt họ hiền hoà chất phác, chuyền các thức ăn khô và nước uống đầy đủ thêm lần cuối trước khi chia tay.
 
Tàu đợi suốt ngày, dong bảng SOS, đốt vải đưa cao... tàu bè quá nhiều đủ cờ các nước qua lại, nhưng tàu nào cũng có vẻ tránh xa... Tôi cũng từng nghe tin tức khoảng thời gian này các trại tỵ nạn chứa người đông nghẹt, gây vấn đề nan giải cho Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, nên có lệnh ngưng vớt người vượt biển. Dù sao vẫn còn mầm hy vọng khi tàu đã đứng ngoài hải phận Việt Nam. Cả ngày nắng rực, mắt không ngừng theo dõi những con tàu ngoại quốc loanh quanh vờn qua vờn lại, lòng thoi lên thóp xuống, tinh thần phấn khởi rồi lại vụt tắt như ánh nắng chiều lịm dần theo bóng hoàng hôn.
 
Trời bắt đầu nhá nhem thì tàu đánh cá xuất hiện trở lại, các anh cho biết
 
- Tuy đã quay lưng, nhưng không yên tâm, nên tàu vẫn đậu xa theo dõi, chờ nếu có tàu nước nào vớt, tụi tôi mới yên tâm đi về, thấy trời đã tối vẫn chưa có kết quả nên tàu phải quay lại.
 
Tàu lại được cột dây thừng sau đuôi tàu đánh cá lần nữa, các anh cho biết lần này sẽ kéo tới giàn khoan Mã Lai luôn. Chiếc tàu lớn kéo chiếc tàu nhỏ lướt trong đêm, nước biển màu xanh đậm sâu hun hút… lần này tôi ngồi cùng vài phụ nữ trên bong tàu, để cánh đàn ông dưới hầm phụ nhau tát nước. Nửa đêm bỗng trời gió bão tơi bời, tàu chúng tôi chòng chành, mỏng manh giữa đại dương bao la, như con thuyền giấy lúc nhỏ tôi vẫn thả mỗi khi mùa nước lụt ngập sâu, tôi có cảm tưởng như chiếc tàu là món đồ chơi của biển cả lúc này. Từng cơn sóng lớn cao gấp ba đầu tôi ào đến phủ con tàu, phủ trên đầu trên mặt tôi, mỗi cơn sóng là tàu nghiêng hẳn bên trái bên phải như muốn lật úp, những lúc nghiêng về bên tôi thành tàu nằm sát mặt nước, phản xạ tự nhiên tôi nghiêng người ngược lại hướng kia, tiếng la hét hãi hùng, tiếng khóc dậy trời, kèm theo tiếng trấn an:
 
- Bà con bình tĩnh, bà con bình tĩnh... tát nước ra.. tát nước ra... tát nước ra..
 
- Tàu nghiêng hướng nào thì mình nghiêng người ngược lại, bình tĩnh... bình tĩnh…
 
Tiếng kinh cầu râm ran pha trộn hai tôn giáo vang trên biển cả. Tôi hết cảm giác… người cứng đơ chấp nhận sự sống chết trong gang tấc, trong từng giây ngắn ngủi, tôi ôm chặt khung sắt nhắm mắt niệm “Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát” liên tục không còn biết thêm điều gì nữa, bỗng có tiếng la to
 
- Dây thừng sắp đứt rồi, bà con ơi... dây thừng sắp đứt...
 
Tôi mở mắt nhìn mọi người nhốn nháo sợ hãi, hình như tàu đã đi qua vùng bão gió, có vẻ yên hơn, qua một đêm đùa giỡn với tử thần, bà con chưa hoàn hồn, tiếp tục lo âu dây thừng bị sóng đánh mòn, nếu dây bị đứt lúc biển động sóng gió có lẽ tàu chúng tôi đã bị lật úp... Và may mắn vô cùng tàu đã đến giàn khoan dầu (Oil platform) ngoài bờ biển Malaysia đúng lúc trời gần sáng. Các anh đánh cá lại thêm một lần lấy dây thừng khác cột chặt tàu chúng tôi vào những trụ sắt dưới chân giàn khoan. Phút cuối cùng thật sự chia tay, bên các anh cũng như bên tàu chúng tôi đều đứng nhìn nhau nói vài lời, nét mặt ai cũng cố đè nén cảm xúc, nhưng không ngăn được những giọt nước mắt ân tình sâu nặng đã cứu thoát một chuyến tàu
 
Trời còn mờ, chúng tôi ngẩng lên thấy công nhân rất đông đứng nhìn xuống, họ đưa máy ra chụp hình và bắt loa hỏi tàu có bao nhiêu người, anh đại diện trả lời
 
- Có tất cả chín mươi hai người và chuyến tàu đã lênh đênh hơn mười hai ngày
 
Họ chuyền ống nước xuống trước, sau đó tiếp tục chuyền cơm gà gói giấy bạc, trái táo và cam vàng, loại cam đã gần mười năm tôi mới thấy lại. Đúng giờ nhân viên trở vào làm việc, không còn thấy bóng người, thỉnh thoảng có những chiếc máy bay hạ xuống tầng thượng lấy nhiên liệu rồi bay tiếp. Đến chiều có lẽ tan giờ làm việc, công nhân lại xuất hiện lan can các tầng cao nhìn xuống, họ tiếp tục chuyền thức ăn và nói qua chiếc loa là đã liên lạc tàu dầu Mã Lai đến đón.
 
Nửa khuya bỗng đâu có ghe tiến tới kề sát, hai tên đàn ông Mã Lai mình trần xâm đầy người, đầu trọc da mặt đen thui, chúng ra dấu sẽ kéo tàu chúng tôi đến đảo, đàn bà con gái tái mặt nhảy xuống hầm chui ẩn trong guồng máy sâu nín thở. Phe đàn ông nhảy lên nhìn hai tên Mã Lai khoát tay ra dấu không đi đâu hết, có lẽ hai tên này thấy đông đàn ông nên không dám nhảy qua tàu bên này chăng?!!, họ lặng lẽ chèo đi.
 
Chưa hoàn hồn thì khoảng tiếng sau lại thấy hai ghe khác đến vờn quanh, quan sát như muốn nhảy qua tàu chúng tôi, đàn ông bắt phụ nữ xuống hầm hết và đứng dàn thật đông, hai bên diễn đạt sao đó các ghe lại bỏ đi, mọi người tiếp tục dật dờ giấc ngủ và mong trời mau sáng... Màn đêm dày đặc, nhìn mực nước sâu tím rùng mình, mực nước nhấp nhô con tàu với làn sóng mạnh, bà con tuy đã có nguồn hy vọng nhưng vẫn còn thấp thỏm dưới ánh đèn vàng của giàn khoan, đêm gió lạnh thổi phần phật… Sáng sớm, công nhân lại xuất hiện chuyền thức ăn xuống, các anh đại diện tàu viết một thư với nội dung vắn tắt như sau:
 
“Nguyên đêm có mấy ghe vờn quanh tàu chúng tôi, khiến mọi người sợ hãi cảm thấy nguy hiểm đến tính mạng, xin bảo vệ mạng sống chúng tôi được an toàn”
 
Thế rồi sau giờ làm việc chiều, có số công nhân bước xuống gần tàu chúng tôi phát áo phao, bắt tất cả đều mặc, họ cột dây từ tàu bên này nối qua cột sắc bên dàn khoan và cho biết lý do.
 
- Chúng tôi không được phép cứu người vượt biển. Chúng tôi sẽ làm cách này... từng người nắm chặt dây cáp, được đu dây đẩy qua lần lượt, cho đến khi còn người cuối cùng biết bơi, sẽ đâm thủng tàu cho chìm rồi bơi lên đây, chúng tôi sẽ trình lên cấp trên với lý do “vì tàu sắp chìm bắt buộc phải cứu người” năm trước có một tàu đã chìm dưới dàn khoan này
 
Người thông dịch giải thích cặn kẽ, chúng tôi làm theo cách họ hướng dẫn, bên kia các nhân viên đỡ từng người lên dàn khoan. Bước kế tiếp chúng tôi được hướng dẫn ngồi tập trung một chỗ, phát bánh mì và nước uống chờ tàu dầu của Mã Lai đến. Khoảng tám giờ tối tàu dầu đến, họ sắp đặt hai người ngồi vào cái cân ôm dây xích chặt, được máy đưa cao lên tầng thượng rồi hạ xuống tàu dầu nhìn như một thành phố nổi trên mặt nước, đây là lúc tôi mới định tĩnh biết đã đến đích. Xuống tàu dầu các nhân viên Mã lai đem trà lipton nóng, cà phê sữa nóng cho chúng tôi uống, mỗi nhóm ngồi từng góc tỉnh táo nói chuyện, lúc đó mới thấy những nụ cười nở trên môi, tha hồ nói những điều mơ ước về đất nước thứ hai.
 
Tàu dầu tiếp tục chạy trong đêm và qua ngày sau, mọi người ra đứng bong tàu nhìn cảnh vật chung quanh với lòng phơi phới. Tôi vẫn còn ám ảnh hãi hùng của đêm giông bão và trầm tư suy nghĩ miên man... “Một phen hú hồn... con tàu này sẽ đến bến bờ không còn đối diện bao nhiêu nguy hiểm nữa”. Nhìn nước biển mênh mông, trời đất bao la, tôi bắt đầu tỉnh táo “Ra khơi... Biết mặt trùng dương, biết trời mênh mông, biết đời viển vông, biết ta hãi hùng… Ra đi nước trời bao la, hết cuộc phong ba, đất liền Âu Á cũng không xa gì.” (Viễn Du_Phạm Duy). Đang mơ màng bỗng có tiếng nói bên tai, ban đầu tôi tưởng mọi người nói chuyện với nhau
 
- Cháu đi một mình thôi à?
 
Tôi ngẩn người bắt gặp “ông phát nước” đang nhìn tôi hỏi
 
- Dạ đi một mình
 
- Trót lọt rồi sao nhìn cháu buồn quá vậy
 
- Dạ đâu có, đang ngắm biển mà
 
Rồi ông nói chuyện thân mật, tự giới thiệu ông đi tù cải tạo về, ông ở đâu...v..v... Tôi muốn nhắc chuyện “uống nước” cho vui nhưng rồi cũng lười nói, chỉ.. dạ.. dạ... cho qua chuyện.
 
Có tiếng lao xao nói “đến rồi bà con ơi.., tới đảo Pulau Bidong rồi”
 
Đảo Pulau Bidong
 
Bao nhiêu con mắt đổ xô nhìn hàng rào đang rõ dần, thấy lớp người mặc đủ màu sắc đứng lô nhô rất đông. Tàu cập bến, tôi túm chặt lưng quần quá lỏng lẻo theo đoàn người bước xiên qua xẹo lại như kẻ say rượu, vì ngồi hơn mười hai ngày trên tàu quay cuồng theo sóng biển, tóc ai cũng dựng đứng vàng khè như bôi đất sét, như thần chết trở về đang đi qua cầu Jetty. Bỗng có tiếng gọi “Chị Minh”, tôi ngẩng đầu lên sững sờ nhìn Thiện, chị em mừng rỡ chưa kịp hỏi câu gì thì Thiện chạy biến mất, chúng tôi xếp hàng đợi làm giấy tờ thủ tục, nhận bàn chải, kem và khăn. Thiện trở lại dẫn theo Hưng (em láng giềng ngoài Huế), trên tay cầm hai ly nước cam cho tôi và Phan. Chúng tôi ngồi nói chuyện mới hiểu Thiện qua hơn một năm nhưng còn kẹt lại đảo vì hồ sơ lỡ khai có chị ruột ở Thụy Sĩ, Thiện lại muốn đi Mỹ theo diện cha quân nhân, chị Thiện làm đơn nhất định kéo em mình về, nên hồ sơ lộn xộn chưa được giải quyết.
 
Thiện đưa tôi về khu Thanh Nữ xin nhập liên gia ở chung với cô Mẫn khoảng hai mươi tuổi, và chị Tâm trên bốn mươi tuổi. Mẫn đưa đơn tôi điền tên, tay tôi run run ghi tên với nỗi xúc động mạnh, vì từ nay tôi đã có “hộ khẩu” (danh từ sau 75), đã được chứng nhận lưu trú đàng hoàng, từ đây sẽ được an ổn tinh thần, không như bao nhiêu năm làm dân ở lậu sống trốn chui trốn nhủi. Mẫn đưa tôi bộ áo quần, dẫn tôi vào góc xó tắm, cô đun gói mì cho dùng tối, sau đó dẫn tôi lên gác gặp chị Tâm, dặn dò đôi điều nhắc tôi và chị Tâm tắt đèn đi ngủ. Điều đầu tiên tôi thấy trên gác là Chuột rất to chạy qua chạy lại trước mắt, chẳng nể nang người gì hết, chị Tâm nói
 
- Qua đây sống chung, ngủ chung với Chuột một nhà, từ từ sẽ quen
 
Tôi nằm khép nép sợ hãi nhưng rồi mệt quá cũng thiếp luôn.
 
Thức giấc vì loa phóng thanh vang lên mọi nơi sau giấc ngủ say buổi tối, đầu óc tôi đang còn lơ lửng những ngày trên biển, chưa định thần mình là ai, đang ở đâu thì nghe tiếng nói
 
- “Đây là đảo Pulau Bidong, tiếng nói của người dân Việt tỵ nạn Cộng Sản...” , sau vài thông báo như kêu gọi số tàu MB297 (tàu chúng tôi) sáng nay đi khám bệnh và lãnh lương thực, hoặc vài thông báo khác, kế tiếp bản nhạc “Đêm Tàn Bến Ngự” với giọng hát Thanh Thúy vang lên “Ai về Bến Ngự cho ta nhắn cùng, nhớ chăng non nước u hoài, có những ngày xanh... thương nhớ.. bao tình...” (Dương Thiệu Tước).
 
Tôi chợt bừng tỉnh, biết chính xác mình đã thật sự xa rời quê hương, tim đập mạnh, người run lên… lâu lắm rồi tôi mới biết khóc trở lại, tôi ôm mặt khóc nức nở như chưa bao giờ được khóc… Chị Tâm nằm bên tôi cũng khóc… theo nỗi niềm của chị...
 
Ở đây như một làng nhỏ Việt Nam, nhiều nghề sinh sống, chợ, hàng ăn, quán cà phê, giải khát..v...v... có đầy đủ của những người sống lâu chưa có diện đi, hoặc đang chờ cứu xét hồ sơ.
 
Sáng đó tàu MB297 được lãnh thực phẩm, khám bệnh, bà bác sĩ đều hỏi một câu giống nhau với tất cả những phụ nữ “kinh nguyệt ra chưa?”, làm tôi nhớ lúc trên tàu, tâm lý căng thẳng đến mức nhiều phụ nữ ra kinh dầu không ai đúng chu kỳ. Ngoài ra chúng tôi còn được Cha gọi lên nhà Thờ phát quần áo, phát giấy viết thư liên lạc thân nhân báo tin, Cha đảm trách phần gởi thư bảo đảm.
 
Mỗi chiều tôi ưa ra biển ngồi trên tảng đá chờ những cơn sóng tràn vào dội lên người, biển thật đẹp giòng nước xanh trong vắt soi thấy những viên sỏi trắng dưới chân, xa xa vài con thuyền có cánh buồm lênh đênh, tâm hồn tôi trở về cảnh quê nhà, ngồi hát bản nhạc mình thích “Cung Đàn Xưa” của Văn Cao
 
Hồn cầm phong sương hình dáng xuân tàn
Ngày dần buông trôi sầu vắng cung đàn
Từ người ra đi chờ vắng tin người
Từ người ra đi là hết mơ rồi
Cung thương là tiếng đàn
Cung nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm châu rơi
Tình duyên lãng đãng, nhớ thương dần phôi pha.
 
Có những hôm các chị réo về nhưng tôi năn nỉ ngồi nán lại thêm vài phút ngắm bóng hoàng hôn, nhìn những ngọn đèn xa tít của đêm, mắt mờ theo hình ảnh thành phố thân thương một thời hoa mộng “Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt. Dăm bảy nụ cười không đủ xoá ưu tư” (Nguyên Sa). Nhiều tối sau giờ cơm xong, hai em Thiện và Hưng đến rủ tôi lên Chùa. Tôi đi ngang qua chiếc thuyền lớn bị nát một nửa, sắt rỉ vàng khè. Người ta kể truyền miệng rằng...
 
Chuyến tàu đầu tiên của người Tàu Việt đi lạc vào khu quân sự hải phận Mã Lai, người trên tàu chết hết sau khi bị Cảnh Sát Mã Lai bắn đuổi đi nơi khác, không cho cập bến, thân tàu được kéo ra giữa biển khơi cho chìm, nhưng chiếc tàu cứ vẫn trôi giạt về lại Bidong, chỉ còn một ông già và cô gái còn sống sót, nhưng rồi cô gái cũng tắt thở, ông lão bò tới ngồi nghỉ mệt dưới gốc cây, cũng bị dừa rớt xuống trúng đầu gục chết tại chỗ luôn. Sau sự việc ấy Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc ra lệnh đảo Bidong mở cửa đón thuyền nhân vượt biển, và bệnh viện Sickbay được xây nên. Nhìn chiếc tàu sắt đầy vết đạn tôi có cảm giác ớn lạnh, luôn thấy có hương đốt ánh sáng lập lè.
 
Cùng hoàn cảnh vượt biên, ai cũng trải qua sự gian nan cùng cực, đùa giỡn với tử thần, chưa kể số người qua đảo bị mất được chôn cất tại đây, nên con người càng có niềm tin mãnh liệt về tôn giáo, vì vậy được xây dựng ngôi Chùa Từ Bi và ngôi Nhà Thờ năằm trên đồi Tôn Giáo. Sự mệt mỏi và hãi hùng khiến tôi muốn ăn chay, muốn sám hối với mẹ đã ăn thế, muốn tu tập tạo phước thiện để tạ ơn trời đất, nên thích lên Chùa thắp hương, nghe kinh kệ.
 
Ngày ngày tiếp tục những chuyến tàu tấp bến, tôi thường chạy ra xem có gặp người thân hoặc ai quen, lắm lúc chứng kiến cảnh phụ nữ được khiêng băng ca vào bệnh viện vì tàu bị hải tặc. Có em bé khoảng mười lăm, mười sáu tuổi ở đối diện trước mặt nhà, nghe những người đi chung chuyến với em, to nhỏ kể chuyện tàu bị cướp, vét sạch tiền vàng, lôi phụ nữ qua tàu họ làm chuyện tồi bại, khi lôi kéo giằng co, em bé này đã khóc lóc gào to
 
“Lạy Chúa tôi... con đâu có tội tình chi”
 
Chị Tâm nằm chung gác với tôi... kể chuyến đi của chị gồm mười hai người, trên tàu chỉ có ba phụ nữ, trong đó một cô khoảng mười tám tuổi đi cùng chồng chưa cưới, gặp hai tàu tới húc mạnh vào tàu của chị tưởng chừng muốn bể đôi, hải tặc nhảy lên lôi ba người phụ nữ, nó giở trò nhưng thấy chị đang có kinh nguyệt, tát mấy bạt tai xô chị xuống tàu, chị chỉ biết lạy lục liên hồi, cô gái chống cự rất mãnh liệt, nó xốc lên, cô gái vật xuống, cứ như vậy vài lần cô đuối sức, nó xé toạc áo cô ra, hai tên kềm giữ hai bên để tên kia cười man rợ bày trò khốn nạn trước mặt mọi người, anh chồng chưa cưới chỉ biết ôm mặt gục đầu, chúng bắt cóc hai phụ nữ đi luôn trong tiếng khóc nức nở của người chồng. Chị còn kể chuyện em trai đi cùng cháu gái theo một tổ chức đường bộ qua Thái Lan, đói rách tả tơi đến nơi là xỉu luôn sau nửa tháng băng rừng sâu nước độc. Chồng con chị thì còn bị kẹt lại VN.
 
Kẻ đến người đi nơi cầu Jetty thường diễn ra những cuộc chia tay đầy nước mắt, tiếng loa gắn trên các cây vang lên tiếng hát Khánh Ly “Ngày mai em đi... biển nhớ tên em gọi về...” (TCS), tiếp Thái Thanh “Nghìn Trùng Xa Cách, Người Đã Đi Rồi...” (Phạm Duy), thêm Lê Uyên “Giờ này còn gần nhau, gần thắm thiết trong mối sầu.. .Cầm giá buốt thương đau, ngày mai ta không còn thấy nhau...” (Lê Uyên Phương) nghe thật nhức nhối và thấm thía cho những mối tình yêu nhau trên đảo.
 
Tôi cũng quen biết em Lệ nơi đây, Lệ đi vượt biên đã cạo tóc trọc lóc và mặc bộ nâu sòng dưới hình ảnh của một ni cô, vì đạo Phật được xem là quốc giáo của nước Thái Lan, nên Lệ hy vọng tránh được nạn hãm hiếp, và may mắn tàu Cô không gặp cướp. Lên đảo cô không có diện đi chỉ chờ các nước nhận nhân đạo, may mắn Lệ gặp Bác Sĩ Hướng trong lần khám bệnh và hai người quen nhau. Bác Sĩ Hướng là người năng nổ sinh hoạt việc thiện nguyện, đem tài năng ra giúp người giúp đời, ngoài việc khám bệnh túc trực ngày đêm trong bệnh viện Sickbay, Bác Sĩ còn dành hai tiếng buổi sáng dạy lớp sinh ngữ vì thiếu người. Lệ có nét đẹp phúc hậu trong sáng, tâm tánh rất tốt hay giúp đỡ bất cứ chuyện gì với người chung quanh, hai người tìm nét tương đồng và yêu nhau. Hướng có Cha đang ở Mỹ bảo lãnh, thủ tục giấy tờ đã xong, Hướng được chuyển trại Sungei Besi để đi Mỹ, nhưng bất ngờ Hướng xin quay về đảo lại, từ chối chuyến đi có lẽ vì lo âu “một ngày xa nhau xóa bao hình bóng”. Thế rồi họ gắn bó bên nhau và đám cưới ghép chung hồ sơ, Hướng làm việc với nhân viên Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, nên vấn đề đi Mỹ không gặp khó khăn trắc trở vì được giúp đỡ.
 
Đó là một chuyện tình đẹp trên đảo tôi được chứng kiến, Hướng và Lệ có lối sống giản dị, bước đầu qua Mỹ, Lệ đã học Nail đi làm, rồi mở tiệm tại nhà, cày tận sức, Hướng ngoài giờ học về phụ vợ “đồng vợ đồng chồng, tát biển Đông cũng cạn”, cho đến khi Hướng được trường Y bên Alabama nhận, vợ chồng bán nhà dời qua đó, lúc này Hướng không cho vợ làm, cả hai tiện tặn tiêu pha dùng tiền bán nhà ăn học cho đến ngày ra trường với mảnh bằng Bác Sĩ chuyên môn (Specialists), họ sống lấy nhân đức làm đầu, sống cho mọi người nhiều hơn bản thân và có kết quả tốt là các con nối tiếp đi theo con đường của Cha, trở thành những thiên thần áo trắng. Tôi và Lệ có duyên từ nhiều đời nhiều kiếp, nên kiếp này vẫn liên lạc, gặp gỡ, phone cho nhau chia sẻ vui buồn.
 
Trại Tỵ Nạn Sungei Besi
 
Một tháng sống trên đảo tôi được chuyển qua trại Sungei Besi thuộc ngoại ô thành phố Kuala Lumpur thủ đô Malaysia, trong khi Thiện và Phan chưa suôn sẻ giấy tờ nên còn ở lại, tôi được đưa về khu Thanh Nữ Độc Thân, phòng có mười người và nằm giường chồng đôi, nơi đây khỏi phải kiếm củi nấu ăn như bên đảo Pulau Bidong, sáng được phát mì gói, trưa chiều đến hội trường lãnh thức ăn về, tối muốn xem phim truyền hình chiếu nơi hội trường, không còn sống chung cùng Chuột như bên đảo. Ở đây mỗi chiều xe bánh mì được vào cổng bán, muốn mua gì có căn tin người Tàu bán luôn, có lớp học Anh Ngữ trong lúc chờ đợi, nhưng mấy ai học được vì quá hồi hộp lo lắng hồ sơ phỏng vấn bị từ chối. Những đêm thao thức không ngủ, chị em kể cho nhau nghe về chuyến đi của mình ....
 
Chị A có đứa con trai bảy tuổi đem theo trên ghe chỉ mình chị là phụ nữ, bọn hải tặc kéo chị qua tàu, dụ cháu nhỏ các món đồ chơi rồi hiếp chị, bọn khốn dội nước lạnh vào mặt sau những lần chị ngất xỉu, rồi thay phiên nhau làm chuyện tồi bại cho đến khi có tàu buôn đến, chúng nó muốn phi tang tội lỗi nên giao chị lại, tàu buôn giúp đỡ hai mẹ con đưa về đảo. Chị được bệnh viện chăm sóc tận tụy sau thời gian dài nằm liệt người, sáng nào tôi cũng nghe loa phóng thanh gọi tên chị lên kiểm lại sức khỏe, lúc trở về chị cho xem thuốc ngừa thai cũng như thuốc đề phòng bệnh aids, may mắn tinh thần chị cũng vững mạnh vượt qua chưa bị điên loạn.
 
Em C thường lên bệnh viện vì hay bị đau đầu, nguyên nhân tàu em gặp cướp, ba tàu bao vây húc mạnh vào tàu em, phụ nữ chạy xuống hầm trốn, em bị một tên cướp chụp đầu lôi lên, em ôm chặt song sắt ghì lại bị cướp túm tóc kéo giật mạnh, đang lúc dùng dằng thì tàu tuần tra trên biển chạy đến, bọn cướp buông ra nhảy về tàu mình phóng trốn nhanh.
 
Khu Thanh Nữ thỉnh thoảng có những buổi họp tại Thư Viện, tôi gặp chị H với nét mặt buồn vời vợi, chị có vẻ khép kín chẳng hề có tiếng nói, sau đó tôi mới hiểu qua chị bạn đi chung tàu với chị H kể lại... tàu bị lạc hướng lênh đênh hơn một tháng, đói khát kiệt sức chết từ từ, chồng và đứa con trai chị H cũng bỏ mạng, lúc gặp tàu quốc tế vớt chỉ còn lại vài người. Tất cả cùng trải những sự kiện hãi hùng đã qua, giây phút sống chết của con người vì tìm tự do đã đánh đổi thân xác liều lĩnh tới tột cùng.
 
Ba tháng trôi qua tôi được phái đoàn INS (di trú Mỹ) mở hồ sơ tỵ nạn, phỏng vấn đậu, nhờ hai tiêu chuẩn là diện vợ chồng và cha quân nhân. Thay vì tôi sẽ được chuyển qua Phi Luật Tân học khoá sinh ngữ, cách sử dụng đồ đạc cũng như có kiến thức tổng quát về đời sống nước Mỹ ba tháng trước khi đi, nhưng vì lúc đó số người tỵ nạn, các lớp học ở Phi còn quá đông nên tình trạng bị ứ đọng, vì vậy tôi được chuyển qua trại Galang 2 thuộc nước Indonesia.
 
Đêm chia tay ngoài trời mưa rơi nhẹ... chị em ngồi quây quần uống trà ăn bánh ngọt, mọi người đều trải qua sự gian nan trong cuộc hành trình, ngày mai sẽ lần lượt định cư nước Pháp, Úc, Canada, Mỹ và nhiều nước khác, nhưng có chia tay là có sự bùi ngùi bịn rịn, chị em xổ túi văn nghệ trao đổi tạm quên tất cả, tôi đọc mấy câu thơ của Nguyên Sa “Mai tôi ra đi chắc trời mưa, tôi chắc trời mưa mau. Mưa thì mưa chắc tôi không bước vội. Nhưng chậm thế nào thì cũng phải xa nhau”, có cô bạn chung phòng ngâm thơ rất hay, Cô ngâm thơ Lưu Trọng Lư “Yêu Hết Một Mùa Đông” và Đinh Hùng “Xin Hãy Yêu Tôi”, tôi cũng nóng máu ngâm lại thơ Quang Dũng vài câu trong bài “Đôi Mắt Người Sơn Tây“
 
“Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta”
 
Đêm kỷ niệm khó quên… Sáng trời mờ sương, mọi người ra sân đưa tiễn, tôi ôm chặt chị A chẳng biết nói câu gì hơn, chỉ biết thương cảm rất nhiều qua chuyến vượt biên của chị, chỉ cầu mong tinh thần chị an ổn trở lại và sớm đoàn tụ cùng chồng đang định cư ở Mỹ.
 
Đảo Galang 2

Qua trại Galang 2, trời mưa buồn tê tái, phe phụ nữ bị dẫn vào tận sát cuối khu rừng, nơi có dãy barrack để hoang lâu ngày không có đường vào, toàn cỏ um tùm. Tôi được xếp ở chung phòng với Cẩm và hai chị em Hồng, Bình. Chị em nhìn nhau thiểu não bước đạp trên cỏ toàn sình lầy để lên gác, khu này xây tạm theo kiểu nhà sàn của người Thượng. Cánh cửa vừa mở ra, một mùi hôi thối xông lên vì rác rến ngập phòng, chúng tôi dọn dẹp cả buổi trời mới có chỗ nằm nghỉ.
 
Nguyên barrack được gọi là khu Thanh Nữ có khoảng mười phòng chung vách, mỗi hai phòng xây cầu thang bước lên. Phe phụ nữ khoảng ba hoặc bốn người một phòng, có cửa sổ nhìn ra khu rừng thấy toàn khỉ leo cây này nhảy qua cây kia, nghe bảo tối ông Cọp có thể về, chúng tôi cài then và dùng cây lớn chặn ngang cửa thêm, đêm đến nghe tiếng động rất sợ hãi.
 
Năm giờ sáng thức dậy sớm, tranh thủ đến máy nước ngọt hứng xách về dùng, ra đầu đường mua rau trái, trứng gà của người Indonesia có sạp bán, cá khô mỗi tuần nhận hai lần. Chúng tôi nấu cơm, kho cá khô bằng lò dầu hoả, ăn bụng thật no rồi đi học đến chiều mới về, sau đó lấy quần áo xuống suối tắm, giặt và xách nước lên dùng vệ sinh với con đường xa gồ ghề sỏi đá.
 
Mỗi ngày chúng tôi đi bộ bằng đoạn dốc dài ngang qua khu Miếu được dựng dưới gốc cây đa rậm lớn. Nghe kể lại miếu thờ hai chị em bị hải tặc hiếp, qua đây chờ diện nhân đạo hơi lâu, thỉnh thoảng bị lũ con trai chọc ghẹo, buồn nhục hai chị em rủ nhau ra đó treo cổ chết, bà con thương tâm nghĩ oan hồn uất ức nên lập trang thờ. Chúng tôi hết sức bàng hoàng xúc động, mỗi lần đi ngang đều dừng lại thắp hương cầu khấn cho vong linh họ được siêu thoát và lúc nào cũng thấy hương khói trái cây người ta đặt cúng.
 
Trên đường có ngôi Chùa lớn, ngôi đạo Cao Đài… những khi hoàng hôn xuống thường nghe tiếng kinh trên đồi từ đạo Cao Đài, và tiếng chuông Chùa buồn áo não vọng lại. Mỗi đêm Rằm Mười Bốn, Mười Lăm, Ba Mươi và Mồng Một chúng tôi đều đến Chùa tụng kinh cầu an. Nhất là chị em Hồng, Bình rất thành tâm, luôn cầu nguyện cho cha mẹ được siêu thoát, vì chuyến đi bán chính thức của người Hoa năm 1977, cả gia đình chia hai tàu, giữa biển tàu ba mẹ hai cô bị đắm chìm trước con mắt chứng kiến của các con. Hồng Bình nói hình ảnh ấy luôn hiện lại trong giấc mơ. Chúng tôi ở vào mùa lễ Vu Lan, thầy trụ trì có thời gian đi du học bên Nhật, nhắn chúng tôi qua Chùa học cách cắm hoa và làm hoa cài áo, đó là những ngày tháng bình an đầy tin yêu cuộc sống ngày mai.
 
Khoá học chấm dứt. Kể khi qua chờ đợi vào lớp, và lúc mãn khóa lo thủ tục khám sức khỏe cũng hơn bốn tháng, toàn cả barack đều đi Mỹ nên không có màn đưa tiễn. Chúng tôi được tập trung một địa điểm để xe bus chở ra Galang một, đến bến tàu qua Singapore ở một tuần. Nơi trại đây thật thoải mái được lo ăn uống đầy đủ, chúng tôi được ghi danh mua vé đi thăm những nơi danh lam thắng cảnh của đất nước này, tài xế người Ấn Độ đến chở bằng xe Bus chở đến xem phi trường, nơi có tượng miếu như quan Công, đến trung tâm thương mại chính...v..v... Nhân viên toàn trai thanh nữ tú đẹp đứng bán hàng, cần mua gì có bạn người Tàu và chị thông dịch viên cùng đi trong nhóm. Có hôm chúng tôi chui hàng rào đi bộ đến chợ nhỏ tìm khu ăn uống bình dân gọi hủ tiếu, tình cờ thấy hình ảnh bà lão gánh bí bầu đi bán làm nhớ quê hương khôn tả. Dân ở đây nhìn hiền hoà, đường sá nhà cửa rất sạch sẽ, thành phố thoáng mát vô cùng, chúng tôi có nhiều cảm tình với nước Singapore trong thời gian tạm dừng chân này
 
Vùng Đất Hứa

Tháng Mười Hai năm 1985 tôi đến Mỹ vào buổi chiều trời mưa lạnh, nhân viên hội USCC đứng chờ sẵn đoàn người để phát áo, bước đầu tiên đặt chân xuống phi trường San Francisco cho tôi cảm giác thật ấm áp dù trời đang rất lạnh, ấm thể xác với chiếc áo Jacket dày màu cà phê sữa, tinh thần thoải mái đón nụ cười thân ái của nhân viên Việt Nam làm việc trong hội. Sau đó tôi thấy ba Lộc, ông Bác, anh Cả và Lộc đứng nơi hàng cổng đón. Về đến ngõ nghe mùi phở bay ngào ngạt do mẹ Lộc nấu. Bữa ăn đông đủ đại gia đình sum họp.
 
Năm Lộc qua Mỹ (1980), đến Sở Xã Hội lập hồ sơ xin trợ cấp mười hai tháng bước đầu theo ân huệ của chính phủ, người worker đưa danh sách các hãng điện tử rồi hỏi Lộc “những nơi này đang cần tuyển người, anh là thanh niên đang còn khoẻ mạnh như vậy có muốn làm không?” Lộc tự ái nhận lời làm.
 
Tôi qua lúc này Lộc đang đi học. Hôm sau Lộc chở tôi đến Sở Xã Hội, tôi còn nhớ rõ tên ông Phạm T., hất hàm hỏi
 
- Anh qua lâu rồi có khả năng nuôi vợ không?
 
Lộc đỏ mặt trả lời nhanh nhẩu
 
- Có
 
- Nếu có anh đem giấy chứng nhận làm nơi đâu lên đây
 
Lộc về xin người chị dâu giấy chứng nhận làm part-time nơi phòng mạch, kết quả tôi chỉ nhận được medical khám bệnh tới một năm, chứ không có tiền trợ cấp, lúc đó tôi chẳng biết ất giáp mô tê chi cả.
 
Ngày thứ hai vợ chồng người em (một trong ba phần hùn), chở tôi lên tiệm bánh, vì công việc quá bề bộn nên xin Lộc cho tôi làm, đầu tiên tập cho tôi là sáng roll bánh Croissant và các loại bánh khác, kế tiếp soạn tủ Sandwich chuẩn bị bán lunch, buổi chiều tiếp tục roll bánh nướng chủ đi bỏ xe lunch, mức lương $4 tiền check thật lớn.
 
Ngày thứ ba là 24 tháng 12 lễ Giáng Sinh, 4 giờ sáng theo xe vợ chồng người em, tối cô Uyên (em Lộc) đến tiệm bánh xin cho tôi về sớm, chở tới tiệm vàng mua cho tôi và Lộc hai khâu nhẫn vàng mười tám (vàng tây), sau đó chở đến tiệm ăn đã có đông đủ các anh em bà con từ dưới Santa Ana lên chơi, trong đó có cả Dũng, chị em mừng rỡ ngồi ôn chuyện cũ.
 
Ngày 25 đúng lễ Noel tôi cũng vẫn mắt nhắm mắt mở theo chân vợ chồng người em đi cày, nhưng Lộc lên đón để kịp có mặt tại nhà lúc 6 giờ. Bước vào nhà, cô Lan (em Lộc) vội vã kéo tôi lên lầu đưa áo dài mặc, chị dâu mua cho dress dài và con heo quay, vợ chồng chủ tiệm bánh cho nước ngọt và làm cái bánh cưới, phần nấu tiệc còn lại do mấy cô em đi làm hùn góp.
 
Tôi ngơ ngác tay chân quần áo đang còn dính bột, nhưng khách đã đến đông, mọi người hối thúc xuống trình làng, anh Cả của Lộc giới thiệu tôi với giọng hân hoan hãnh diện.
 
- Con xin chào mừng các bác, các anh chị em họ hàng đã đến chung vui buổi ra mắt cô dâu mới qua, “xin chú ý cô dâu này rất đặc biệt là đã từng vô tù ra tù...” tiếng vỗ tay liên tục, những ánh mắt nhìn tôi trìu mến.
 
Tôi ngượng ngùng trân mặt, các cháu nhỏ mở lớn mắt nhìn tôi như nhìn tội phạm nguy hiểm, sau này các cháu nghe bố mẹ giải thích đã hiểu phần nào.
 
Tôi tiếp tục đi cày ngày hơn mười hai tiếng, tháng ba mươi ngày, các cô em và mẹ chồng nói “nếu tháng có ba mốt ngày chắc là Minh sẽ làm luôn”
 
Sáu năm nơi tiệm bánh bị dị ứng mùi phấn bột suốt ngày nhảy mũi đến long đầu, tôi đổi công việc và được vào làm company Kyle Design về ngành mỹ thuật (các mặt hàng trang trí nhà cửa, bông tai, dây chuyền, các thứ trang sức) do cô Mỹ trắng điều hành, đúng sở thích và tôi được may mắn với công việc này hơn hai tám năm (28) cho đến ngày về hưu.
 
Nghĩ lại chuyện không được hưởng trợ cấp, tôi cũng cằn nhằn Lộc một thời gian... nào là “quân tử Tàu, là Bụt sống trên Chùa”... Bây giờ qua giai đoạn tôi thấy nhẹ lòng và hãnh diện vì không là gánh nặng cho đất nước Hoa Kỳ, luôn sống với ý chí mạnh mẽ, siêng năng cần mẫn, một tinh thần tươi vui thoải mái, đầy đủ no ấm và quan trọng nhất là được hít thở không khí tự do.
 
Tôi có hai mươi năm được sống dưới chế độ Cộng Hoà của miền Nam hạnh phúc no ấm, nay chỉ còn trong hoài niệm thời hoa mộng để nhớ để thương.
 
Mười năm của sự hãi hùng căng thẳng, tâm trí rối loạn, thân xác rã rời, sống như bóng ma dật dờ cuối đường hầm đen tối, tôi đã đánh đổi bằng mạng sống với sự liều lĩnh, sẵn sàng chọn cái chết để tìm hai chữ tự do “tự do ơi tự do, em trả bằng nước mắt, tự do hỡi tự do, anh trao bằng máu xương...” (Nam Lộc), mười năm có vết thương cắt sâu tâm hồn, đâm nhói trái tim.
 
Hơn ba mươi lăm năm trôi qua như giấc mơ, tôi có được tất cả... thẻ An Sinh Xã Hội, bằng lái xe, bằng quốc tịch của một nước nhân đạo che chở đùm bọc. Giấc ngủ mỗi đêm bình an, hít thở không khí tự do nơi xứ sở văn minh tiến bộ bậc nhất thế giới, nơi không bị đe dọa ép buộc đi kinh tế mới, không nhìn cảnh gian trá chụp mũ, nói một đường làm một nẻo của lãnh đạo Việt Cộng, không thấy cảnh con buôn giành giựt, tống tiền, hung dữ do xã hội ép buộc họ tới con đường cùng cực của một số người như vậy. 35 năm sống đời lưu vong, tôi được hồi sinh và đã xem đây là quê hương thứ hai của mình, 35 năm của niềm hạnh phúc hàn gắn cuộc đời còn lại.
 
Tôi bắt tay vào công việc như những người Việt Nam khác bằng tất cả sự cố gắng và siêng năng, biết giá trị của sự sống còn, biết đất nước Mỹ đã cho mình có điều kiện thể hiện những ước mơ…
 
Tôi biết mang ơn nên vẫn thường góp lòng chia sẻ gởi hội Hồng Thập Tự khi nước Mỹ có tai họa, hoặc tham gia theo hội Huế đãi cơm người Homeless nơi Shelter tại khu “The James F. Boccardo. Regional Reception Center thuộc thành phố San Jose, hay gởi check đến Bay Area (Rescue Mission) thuộc thành phố Richmond, check đến Veterans of Foreign Wars thuộc thành phố Kansas tiểu bang Missouri.
 
Tôi luôn nhớ Xuân và Cô Nga vào dịp Tết từ ngày mới qua cho đến bây giờ, và chẳng tiếc chi khi xây cho anh mình ngôi nhà mới. Tôi mang ơn chị Phi cho ngậm sâm, chị Nguyệt, Ôn Mạnh và nhất là gia đình Lộc đã hết lòng hỗ trợ. Tôi còn nhớ anh chị Tư Cầu đưa rước vượt biên dưới Rạch Giá lúc bị vào tù, tuy chuyến đi không thành, nhưng tình cảm họ cho là đã nhận, tôi nhớ các anh đánh cá… đó là điều làm tôi thấy buồn ấm ức vì chỉ biết ơn mà không trả ơn được.
 
Bao nhiêu năm cơn ác mộng luôn in sâu trong tâm trí tôi, ám ảnh từng chi tiết, vẫn luôn trở về trong giấc mơ từng giai đoạn. “Thời gian như bóng câu vụt ngoài song cửa sổ”, đã hơn 35 năm trôi qua nhưng cuộc vượt biển tìm tự do thì như mới xảy ra hôm nào… còn rất mới... Tôi đã giật mình suy nghĩ: “.. tại sao mình không để ngòi bút ghi tạc lưu lại cho con cháu đọc về sau, đây là kỷ niệm đáng giá của một đời người thập tử nhất sanh mà”.
 
Nhắc những nhân vật có tên trong này, nhất là với các em nếu có dịp đọc, chắc sẽ giật mình ngạc nhiên thấy bà chị mình còn trí nhớ rất tốt phải không? Nhớ tất cả mọi chi tiết của tháng ngày tìm tự do, nhớ con tàu khi lên đảo được mang tên MB 297. Mời các em cùng sống lại với chị, trầm tư về hai chữ “tự do” và sự trả giá của nó, có điều may mắn là nhóm “vào tù” năm xưa đều vượt biển trót lọt, chỉ là kẻ đến trước, người đến sau...
 
Thiện nay đang sống bên Thụy Sĩ. Dũng cũng như hai chú cháu Phan, Văn đều ở Mỹ. Gia đình Ôn Mụ Mạnh (O Loan, O Hà, chú Phước) định cư Tây Đức. Ôn đã qua đời, O Loan cũng mất vì bệnh tim. Các em Dũng Thiện, Văn đều ăn học thành tài lương cao, job lớn, cuộc sống ổn định vững vàng.
 
Tháng ngày tìm tự do tôi đã viết xong, nhìn ra khung cửa mấy chậu Cúc, Mẫu Đơn, khóm hoa Hồng nở nụ khoe sắc hồng, tím, vàng đang là đà trước gió. Nắng nhạt nhòa, tôi luôn mê những buổi chiều vàng, hình như tâm hồn tôi đi rất xa, nơi thế giới của suối thơ và âm nhạc…
 
“Người ơi một chiều nắng tơ vàng hiền hoà hồn có mơ xa
Người ơi đường xa lắm con đường về làng dìu mấy thuyền đò
Còn đó tiếng tre êm ru
Còn đó bóng đa hẹn hò
Còn đó những đêm sao mờ hồn ta mênh mông nghe sáo vi vu ...”
 
Bản nhạc “Hương Xưa” của Cung Tiến tôi mê từ thời đi học, đang ru tôi mơ hồ hình ảnh thân yêu của quê hương, nay đã xa vời vợi...
 
 
Minh Thúy Thành Nội
 
 

Tìm các bài VĂN khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com