User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
- Kính dâng hồn thiêng dân tộc trong buổi mệnh nước ngả nghiêng
- Kính tặng những Cái Cò chinh phụ lặn lội tìm chồng phương Bắc
- Kính dâng Mẹ – Kính tặng Cha

nhuthuong

Người thiếu phụ “Lụa đào sắt son” (Hình chụp vào năm 1988 trong giây phút hồi sinh khi người chồng về từ ngục tù CS).

Nhân ngày 30 tháng 4 năm nay, Trang T.Vấn & Bạn Hữu  giới thiệu 3 cây bút nữ cùng viết về 42 năm sau ngày tháng 4 cay nghiệt ấy: Ngân Bình vượt ra khỏi chủ đề thông thường để kể lại câu chuyện đời mình “Quãng đường nhìn lại“, Lưu Na với “Hồn cây xương lá” cay đắng triết lý “Cuộc phong ba qua đã lâu rồi, nhưng không còn ai có thể tạo dựng lại những gì nó đã tàn phá...”, còn Như Thương thì dùng lời thơ kể về người phụ nữ Lụa Đào Sắt Son mà cô kiêu hãnh gọi là mẹ, người phụ nữ như hàng trăm ngàn người phụ nữ miền Nam năm xưa đã gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.

Ngày hôm nay, 42 năm nhìn lại, càng cảm thán thêm nỗi buồn của Lưu Na: “Cuộc phong ba qua đã lâu rồi, nhưng không còn ai có thể tạo dựng lại những gì nó đã tàn phá...”, càng trân trọng thêm sự lựa chọn định mệnh của Ngân Bình và càng ngưỡng mộ thêm người phụ nữ bằng xương bằng thịt của đời thường – nay đã phiêu diêu nơi một cõi trời  thanh thản – mà Như Thương khắc họa trong trường thi “Lụa Đào Sắt Son” dưới đây.

Trân Trọng giới thiệu,

T.Vấn & Bạn Hữu

Lời dẫn truyện của Như Thương:

Trường thi “Lụa đào sắt son” là tiếng tơ lòng của người vọng phu tên Kim Anh – được người con gái Kim Hương viết lại bằng thơ và chia thành 10 thi khúc.

Chuyện kể về Kim Anh đã đợi chồng Phạm Cẩn khi chồng trôi theo mệnh nước ngả nghiêng và bị đày ra Bắc trong mỹ từ “Học tập cải tạo” của những kẻ mang danh cộng sản, nhưng thực chất mỹ từ ấy chỉ vỏn vẹn là một chữ !

Người thiếu phụ ấy đã tay bồng tay bế 8 đứa con thơ khi chồng trong ngục tù 13 năm dài đăng đẳng. Cái Cò đã lặn hụp trong phong ba bão táp của mệnh người như con đò mong manh xuôi theo mệnh đời, vận nước.

Người chinh phụ đã trầm luân trong bể khổ, không còn giọt lệ rơi nào trên má hồng nay đã nhăn nheo, mà chỉ là ánh mắt chịu đựng, cố vượt qua thử thách của kiếp người. Người chinh phu thì biền biệt tận sâu thẳm núi rừng phương Bắc.

Đường xa diệu viễn, bước chân người chinh phụ ấy đã băng rừng, lội suối, vượt sông, qua núi, đèo trùng trùng điệp điệp ở mãi tận đầu nguồn phương Bắc đi tìm chồng …

Ôi lá lay kiếp  hoa, phận người! Biết ai thấu chăng cánh nhạn lạc tình lẻ loi giữa giòng đời dâu bể trong mảnh lụa đào sắt son chung thủy….

Thi khúc 1: Viếng mộ thiếu phụ Kim Anh

Thi khúc 2: Về người thiếu phụ năm xưa

Thi khúc 3: Chí trai hồ hải

Thi khúc 4: Loạn lạc – chia ly lần đầu

Thi khúc 5: Thuyền nhân

Thi khúc 6: Chia ly lần hai – khởi đầu đoạn trường khúc 1

Thi khúc 7: Đường ra Bắc

Thi khúc 8: Cuộc sống người “tù” và chồng vợ trong đoạn trường khúc 2

Thi khúc 9: Vinh danh người thiếu phụ

Thi khúc 10: Lời kết dành cho mảnh “Lụa đào sắt son”  

Thi khúc 1:

Viếng mộ thiếu phụ Kim Anh

Thời gian vào buổi sớm mai sương mù. Không gian là những hàng bia mộ thẳng tắp trên nền đất, rải rác những nấm mộ lộ thiên. Lá xanh của những hàng cây trong nghĩa trang đứng sững như cõi chết của những nấm mộ. Có dáng người con gái – Kim Hương – len lỏi đi giữa những hàng mộ bia đều đặn. Mùi hương khói lan tỏa trong cỏ cây ngậm ngùi…

Lá vàng rơi trong lặng lẽ âm thầm
Bao vong hồn nơi quạnh quẽ, tịch liêu
Buồn vui ơi chỉ một thoáng thăng trầm
Người đã khuất, xa gánh đời nặng trĩu
 
Trả nụ cười cho vận số gian nan
Trả thân xác cho thế gian: hạt bụi
Trả lệ rơi cho tháng ngày lầm lũi
Trả truân chuyên cho mệnh nước suy tàn
 
Đâu phu phụ – em gánh tình duyên nợ
Đâu con thơ – thân lặn lội Cái Cò
Đi thật xa, nơi đất trời khép mở
Cuối kiếp người, dừng vạn nẻo quanh co
 
Người vọng ai mà một ngày hóa đá
Để lại đời mảnh vuông lụa sắt son
Đất Bắc – thôi chẳng còn là đất lạ
Những ngược xuôi năm tháng cũng đã mòn

Cô thì thầm với ngôi mộ đá và khung hình người quá cố, rồi bày biện hoa, trái cây, nhang, đèn trên mộ và thắp nhang khấn thầm, gục đầu khóc bên bia mộ.

Người thiếu phụ của thuở xưa xuân sắc
Hương khói bay theo thân xác rã rời
Thôi quên hết những buồn vui nước mắt
Người ở đâu, sao nấm mộ không lời
 
Mẹ ơi! Mẹ ….
Xương thịt Mẹ đã âm thầm hóa đất
Chút tinh anh theo sương gió bạt ngàn
Bước chân đi có nghĩa là Còn-Mất
Còn thủy chung, nhưng lạc mất cung đàn
 
Đây bia mộ còn ghi ngày tử biệt
Bụi thời gian xóa lấp cõi nhân gian
Hay oan khuất nằm trong điều oan nghiệt
Sinh tử đâu hỡi năm tháng muộn màng

Bóng nắng chiều buông dần xuống và người con gái rời nghĩa trang, trong lòng đầy ắp những hình ảnh quá khứ về Mẹ của cô – người nằm dưới mộ.

Thi khúc 2:

Về người thiếu phụ năm xưa

Năm xưa bên chén rượu giao bôi, có hai người thề hứa bên nhau suốt đời dẫu đường đời chông gai vạn dặm, dẫu còn trẻ hay yếu già, cũng như lúc hạnh phúc lẫn đau khổ, gian nan… Thế đấy, người con gái đã theo chồng, về với người mình hẹn thề câu thủy chung. Người chồng năm xưa xông pha ngoài chiến trận và suốt cả một thời xuân sắc, người vợ đã khăn gói theo chồng trên những chuyến xe bụi mịt mù nơi hậu phương và doanh trại đồn lính.

Thời xuân sắc, áo lụa tình phu phụ
Nửa đường đời đạo chồng vợ sắt son
Chữ hạnh phúc: Kim Anh lòng thầm nhủ
Tạ ơn chồng tấm mẳn thật vẹn tròn
 
Anh là lính và em là vợ lính
Đời bỗng quen nghe súng đạn chiến trường
Để đêm đêm nằm bên cạnh người thương
Mùi áo trận lẫn mùi chồng ngộ nghĩnh
 
Đôi giày trận bết đất bùn, bụi đỏ
Chốn cao nguyên mờ sương phủ núi đồi
Anh lặn lội nơi rừng thiêng. Thần nỏ…
Như chí trai tay cung kiếm vang hồi
 
Xin Đất Trời chở che điềm lành dữ
Để lằn tên mũi đạn sẽ né thân
Người lính chiến giữa sa trường sinh tử
Ai biết đâu tên lạc đạn xa gần
 
Những lo âu đã quầng thâm đôi mắt
Vợ trông chồng ngoài biên ải xa xăm
Biết áo trận giữa phút giây bất trắc
Có bình an… khi đêm xuống âm thầm
 
Duyên tơ thắm khi nắng thu vừa chớm
Mấy mươi năm dẫu chinh chiến bên người
Một đời Mẹ theo Cha con khuya sớm
Tình ý xưa vẫn nguyên vẹn một lời

Thi khúc 3:

Chí trai hồ hải

Phạm Cẩn: Người chồng của mảnh lụa đào sắt son Kim Anh – xưa thời trai trẻ theo đường cung kiếm. Người thanh niên ấy như bao thanh niên thời ly loạn, đã buông bút nghiên và từ giã nghiêm đường mà đi theo đường binh nghiệp 21 năm trường, cho đến một ngày đành khóc hận nơi trời Nam khi buông súng theo mệnh nước thăng trầm.

Thời trai trẻ, kiếm cung hào khí và tuổi thanh xuân sống trọn với mộng hải hồ

Đời hồ hải bốn phương trời vùng vẫy
Tuổi đôi mươi mơ cung kiếm lên đường
Sống chết ư, nhạo cười điều run rẩy
Giang san ơi, mộng bảo kiếm Hồ Trường
 
Nghe giai điệu dậy hồn biên cương trấn
Khắp sơn hà chốn rừng thẳm núi thiêng
Kèn thúc quân rạng danh giờ ra trận
Giữ sơn hà đền ơn nước, tổ tiên
 
Yên cương hỡi, gươm báu xưa truyền lại
Chiến mã ngày tung vó ngựa bốn phương
Tấc lòng son chẳng nề gì quan ngại
Bụi dặm đường. Ôi vạn nẻo quê hương…

Thi khúc 4:

Loạn lạc – chia ly lần đầu

Thời điểm vào “Tháng Ba năm 1975”… ngày biến loạn bùng nổ, người thiếu phụ dắt díu con thơ tìm đường sống trong buổi loạn ly ấy. Đấy là buổi chia ly đầu trong đoạn trường khúc khi chiến chinh bủa vây phận người. Lần chia ly vì loạn lạc này, chồng vợ đã cách biệt nhau một tháng – không biết tin tức sống chết ra sao…

nonsatvanonla

Người thiếu phụ lạc chồng – người ở đỉnh đồi và người ở chân đồi – và người chồng lính trận không về được với gia đình. Hai ngả đôi đàng đều lánh nạn trong rừng và các Đấng Linh Thiêng nơi rừng núi bạt ngàn đã che chở, bảo bọc họ toàn mạng cùng con cái.

Người thiếu phụ đi tìm chồng trong lửa đạn, biết dặm dài có gặp được chăng? Tìm chồng đâu giữa dòng người chạy loạn? Trong quay cuồng, xin Trời Đất xót thương…

Anh đỉnh đồi. Em chân đồi. Ly biệt
Giặc đến rồi, anh hỡi… ở đâu anh?
Lạy Trời Đất, con cúi đầu thống thiết
Xin ơn lành khi đầu trẻ còn xanh
 
Bốn phương hướng – biết tìm đâu phương hướng!
Trời mênh mông và Đất cũng mênh mông
Đành xuôi tay phó thác – niềm tin tưởng
Phật Trời thương xin che chở má hồng
 
Dẫu mệt lả vẫn cố gượng mà sống
Dẫn con thơ thoát lửa đạn chốn này
Tìm gặp chồng giữa muôn ngàn hy vọng
Rằng đợi em, anh có thoát vòng vây?
 
Vai Mẹ đã gánh gồng bao buổi chợ
Áo rách mòn, mưa nắng cũng qua đi
Chắc có lẽ đất trời sẽ không nỡ
Tuyệt đường sinh, đường tử để sinh ly
 
Chạy về đâu giữa phút giây nguy biến
Lánh rừng già, chốn nương náu ẩn thân
Đêm đạn bom nghe đất trời rung chuyển
Lả mệt người ôm con dại thật gần
 
Nếu có chết, xin được là trọn vẹn
Cả gia đình không ly tán xác thân
Con sợ. Khóc. Lòng Mẹ sao nghèn nghẹn
Mẹ ôm con, ôm tất cả một lần
 
Một tháng trường – khúc đoạn trường lưu lạc
Kiệt sức người. Đứa con dại bụm tay…
Lấy nước suối cho Mẹ hiền đỡ khát
Đừng bỏ con giữa xa lạ chốn này
 
Dòng suối ơi, nguồn nước trong huyền diệu
Đỡ khát lòng, cơn nắng cháy Tháng Ba
Cám ơn người lòng nhân từ sẽ hiểu
Phút đói cuồng mót khoai rẫy ngày qua
 
Sương khuya lạnh lót lưng người loạn lạc
Nhóm lửa lên tìm hơi ấm tình người
Những khuôn mặt thất thần và ngơ ngác
Ngồi co ro… nghe đạn nổ lưng trời
 
Đêm trăng tỏ khấn linh thiêng cứu độ
Khấn rừng xanh che chở phút nguy nàn
Khấn mệnh phần đừng chia phần vắn số
Khấn sao trời dẫn con thoát mọi đàng

Thi khúc 5:

Thuyền nhân

Năm năm sau thời loạn lạc, người con trai lớn của Phạm Cẩn và Kim Anh đã nghe lời Cha nhắn nhủ trong tù: Con hãy vượt biên tìm đường sống.

Và cậu bé lên đường làm thuyền nhân. Mẹ đau xé lòng bởi ra đi là mệnh Trời tế độ, bàn tay con người thật hữu hạn trong chuyện tử sinh này. Dẫu biết rằng đó là con đường sống thật mong manh, nhưng vẫn còn có cơ hội sống sót và thoát khỏi sự dòm ngó của giặc đang lần hồi xiết chặt cuộc sống để đưa con người đến cảnh lầm than, thống khổ và người con trai sẽ bị trở thành công cụ của những danh từ lừa dối từ cộng sản “Nghĩa vụ lao động” hay “Nghĩa vụ quân sự”.

Con của Mẹ, xưa tay bồng nựng nịu
Nay biển khơi giữa sống chết hãi hùng
Đi đi con, nghe lời Cha… con hiểu
Mẹ thương con, lạy sóng vỗ nghìn trùng
 
Con đi học, Mẹ đưa tận cổng trường
Con đi thi, Mẹ ngóng vào cửa lớp
Con ra biển, Mẹ nằm nghe sấm chớp
Đêm lặng về… Mẹ khấn vái tứ phương

Cầu xin con thuyền thúng nhỏ bé, chiếc ghe chài mong manh đưa con đến bến bờ Tự do.

Cầu xin biển Nam, biển Bắc thuận buồm xuôi gió, đừng nổi cơn cuồng nộ.

Cầu xin lòng người đoái thương những kẻ đi tìm con đường sống bằng con đường chết và đừng xua đuổi người khốn cùng trở lại với biển động sóng gào.

Ngóng tin con biển xa đầy tin dữ
Góc biển nào con ngụp lặn tử sinh
Mẹ nguyện cầu không bằng lời, bằng chữ
Bằng trái tim Mẹ: Con – núm ruột mình
 
Xin con sống. Đừng mồ xanh vàng cỏ
Đừng trôi thây vào hoang đảo xa xăm
Đừng mất tích chốn tối tăm ngục đỏ
Đừng biệt tăm xé lòng Mẹ lặng câm

Ngày Kim Anh giao đứa con thân yêu cho đại dương, người thiếu phụ ấy không biết làm gì hơn là cầu xin trùng khơi che chở con mình tai qua nạn khỏi, sóng yên bể lặng. Một tháng trường trong từng giây từng phút, lòng người Mẹ rối như tơ vò và chỉ biết lặng lẽ cầu nguyện cho đứa con trai của mình ngày đêm, bởi mệnh số của con là do Trời định.

Đường con đi có sao Trời dẫn lối?
Có linh thiêng người khuất mặt độ trì
Có sóng yên cho ghe con trôi nổi
Có lòng nhân, người cứu mạng thiên di
 
Nếu con sống, Mẹ tạ ân Trời Đất
Đã đoái thương những đau khổ tận cùng
Mẹ đã quen sống dòng đời lây lất
Những đứa con là tất cả… đêm chùng
 
Nếu con chết, Mẹ cũng xin Trời Đất
Cho xác con về lại chốn đất liền
Đừng trôi đi để sẽ là biệt mất
Lạy Đất trời con tôi được bình yên

Những câu chuyện kể về thuyền nhân của những người đã đi trước mà còn sống sót, nhưng không đến được bến bờ Tự do bỗng chốc trở về trong tâm trí Kim Anh như một nỗi lo âu tột cùng.

Mẹ chết lặng nghe bao lời kể lể
Lòng rối bời con vượt biển trùng khơi
Khấn ơn Ơn Trên cho qua ngày dâu bể
Giông tố ơi, xin dừng lại… Lạy Trời
 
Em sẽ sống và con mình sẽ sống
Rửa cho anh mối nhục chốn đọa đày
Con trai ơi, nỗi oán hờn bi thống
Nhớ nghe con, tên Mẹ giữa bàn tay

Chuyện người chồng, người vợ, những cô bé tuổi 15, 17 giữa vòng vây hải tặc… Trên ghe vượt biên thì những người đàn ông, đàn bà, con gái và thậm chí cả trẻ thơ đều là những nạn nhân của bọn hải tặc! Đó là điều bất hạnh của một dân tộc trên đường chạy trốn chế độ cộng sản.

- Họ sợ chết… Vâng!

- Họ sợ bị hãm hiếp… Vâng!

- Họ sợ đói… Vâng!

- Họ sợ khát… Vâng!

- Họ sợ bị bắn chết trên đường trốn chạy. Vâng!

- Họ sợ mất chồng, mất vợ, mất con thơ khi bọn hải tặc lùa người sang ghe hải tặc. Vâng!

Cái đắng cay ấy của họ là cái giá phải trả, kể cả phải trả giá bằng mạng sống!

Mọi người đều biết chuyện gì có thể xảy ra cho chính bản thân họ, gia đình thân yêu của họ; nhưng nếu có cơ hội, thì họ cũng vẫn muốn rời mảnh đất nơi họ sống đang bị nhuộm đỏ bởi chính quyền cộng sản để đi tìm mảnh đất mới sinh sống.

Và đau đớn, xót xa thay cho những gia đình, những người phụ nữ tay yếu chân mềm, trẻ thơ vô tội không lối thoát, không một chọn lựa nào khác trên con thuyền tròng trành trôi lênh đênh hay vỡ nát!

Nghe man rợ tiếng hét la vọng lại
Tiếng tử thần, cửa địa ngục mở ra
Mẹ ôm con chắp tay xin khẩn vái
Thân Mẹ… thôi… nhắm mắt cũng qua mà…
 
Xin đổi mạng cho con tôi được sống
Xin thứ tha, anh nơi ngục tối tăm
Em cắn răng nghe lời anh vượt sóng
Biển ngoài kia đâu mất ánh trăng Rằm
 
Từ ngày ấy những lúc em ra biển
Nhìn sóng gào mà nước mắt trào tuôn
Đâu mảnh ván buông tay em… Một miếng
Đâu phút giây hải tặc bỗng điên cuồng

Cần bao nhiêu năm để một người Mẹ quên đi tiếng kêu cứu của con gái mình trong tay hải tặc? Vĩnh viễn và đời đời tiếng kêu thét ấy khuấy động cả đại dương và chìm sâu trong lòng người Mẹ không cứu được con mình trong nỗi uất nghẹn tột cùng.

Tiếng thất thanh giữa đêm trường vô vọng
Mẹ cứu con. Mẹ ơi, Mẹ cứu con…
Bầy quỷ dữ xé toang… thân bé bỏng
Áo hoa con. Tơi tả… Tuổi mộng tròn
 
Xác thân người giữa phong ba bão tố
Phó mệnh Trời xin rủ chút xót thương
Tự do ơi, chim lạc bầy vỡ tổ
Mẹ Cha ơi, con thân gái dặm trường…

Bao nhiêu giấy mực, chuyện kể của tiếng khóc, nỗi uất nghẹn, nỗi lòng trĩu nặng còn đọng lại thành vết thương sâu tận trong lòng cho vừa đủ… chẳng bao giờ nói hết được!

sbtn1

Để chỉ cần nhắc đến hai chữ “Thuyền nhân” là cả một trang quá khứ đau thương ùa về theo nước mắt. Dòng nước mắt của bao điều thống khổ tận cùng đến không còn ngôn từ diễn tả. Dòng nước mắt của tủi nhục, đớn đau, xót xa cho những gia đình, người phụ nữ tay yếu chân mềm, trẻ thơ vô tội không lối thoát, không một chọn lựa nào khác trên con thuyền chòng chành trôi lênh đênh hay vỡ vụn giữa mênh mông!

Tiếng gào rú của biển đông oan nghiệt
Đẩy hồn oan thân xác đẫm máu khô
Xuống tận đáy đại dương không thương tiếc
Nước mắt nào đưa tiễn kẻ không mồ
 
Ơi biển mặn… mặn thêm dòng lệ mặn
Ơi trùng dương hòa nhuộm máu, xác người
Đâu nhân ái giữa đảo hoang, biển vắng
Ôi bi thương, sầu ngất giữa đất trời

Thi khúc 6:

Chia ly lần hai – khởi đầu đoạn trường khúc 1

Nhắc chi cung kiếm binh đao nữa
Một dải sơn hà đã tang thương
Bắc Nam từ độ tranh nghiêng ngửa
Bến Hải Hiền Lương luống đoạn trường
 
Dung nhan ấy nổi trôi theo vận nước
Sầu riêng chung bao cay đắng mệnh người
Buổi loạn ly đã vạn lần xuôi ngược
Đoạn trường ơi, ngày mất nước nghẹn lời
 
Anh đi phương ấy xa biền biệt
Bảo trọng thân mình, em ngóng trông
Đàn trẻ dại khờ rồi sẽ biết
Cha con theo lời gọi núi sông
 
Rừng thiêng che chở cho anh nhé
Núi thẳm trông chừng bước chân đi
Nhắn sông xuôi ngược đừng phân rẽ
Em đợi ngày về hết biệt ly
 
Chiến trận ngoài kia là sinh tử
Phó thác Trời cao em biết không
Vợ rưng nước mắt- lành hay dữ
Xin nguyện Ơn Trên đến với chồng
 
Phấn son em cất theo gương lược
Lấy chồng chinh chiến áo trận xanh
Xa xăm biên ải hồn non nước
Em ở nhà lặng lẽ đợi chờ anh
 
Yêu em biết mấy phút tơ chùng
Anh sẽ nhớ em và nhớ con
Một mai ta sẽ lại tương phùng
Em vẫn hương trầm dẫu héo hon
 
Về nhà vài bữa lại xa em
Biết nói gì đây mái tóc mềm
Chồng em lính trận em biết đấy
Em vái van Trời khắp Đông Tây
 
Biên cương trấn ải chừng hiu quạnh
Tay súng chìm trong ánh nắng chiều
Từng đêm gió núi và sương lạnh
Poncho như thể vợ thương yêu

Thi khúc 7:

Đường ra Bắc

Niềm trông ngóng giấu cõi lòng héo rũ
Phút tiễn chồng đi vào chốn ngục lao
Buổi can qua nghe đất trời vần vũ
Ghềnh thác xưa, núi đá cũng nghẹn ngào
 
Đôi mắt Mẹ là tháng ngày quá khứ
Dõi theo chồng, đã phương Bắc… ra đi
Biết đâu phút chia biệt là sinh tử
Hai mái đầu lặng lẽ khóc phân ly

Hướng đi từ Hà Nội đi Yên Bái và cuối trạm thì xuống ga Ấm Thượng. Kim Anh thất thểu trong đoàn người từ trong tàu đi ra, sau lưng là một số người chen chúc cùng xuống xe lửa.

Tiếng vọng ồn ào từ trong tàu ra là tiếng súc vật heo gà eng éc vì người và vật đi chung trong chiếc tàu lửa ấy.

Từ Hà Nội ra đến ga Ấm Thượng
Trăm ký lô đã ngược Bắc nuôi chồng
Con trông ngóng cha và vợ gánh gồng
Đường diệu vợi Bắc Nam đành gắng gượng
 
Người vợ Kim Anh tìm chồng giữa núi rừng:
 
Thượng Đế hỡi, bàn tay con hữu hạn
Rừng núi thiêng xin dìu dắt dặm đường
Nước mắt em từ lâu rồi đã cạn
Héo hon lòng tìm tay ấm yêu thương
 
Đây đất Bắc chốn tận cùng sâu thẳm
Hoàng Liên Sơn vỡ tiếng khóc đại ngàn
Thân thiếu phụ bước đường xa cơm nắm
Ngủ bìa rừng cạnh muông thú dã hoang
 
Tìm chồng lên núi non cao thẳm
Núi khuất sương mù nhuốm tang thương
Tháng nào gió bấc về muôn dặm
Vượt khúc trần ai, khúc đoạn trường
 
Không thuyền, không bến, đường xa lạ
Vượt cạn dòng sông, vượt cạn đời
Nắng tắt bên sông đành vội vã
Phó thác nông sâu với đất trời
 
Cơm nắm, lương khô cho tù tội
Đội cả lên đầu tóc bạc phai
Đừng ướt, đừng trôi, đoàn người lội
Kẻ níu, kẻ đu sóng mệt nhoài
 
Khúc xoáy giữa sông đầy nghiệt ngã
Dẫu cuồng nộ mấy phải qua sông
Tay người bấu víu trong mệt lả
Bên kia ghềnh đá… sẽ gặp chồng
 
Chân rã rời, gậy chống thêm bước mỏi
Đá hoang vu nín lặng nỗi sớt chia
Ngả lưng nằm khấn sao trời vòi vọi
Xin Ơn Trên đừng đôi ngã chia lìa
 
Đêm nay lạnh, lòng em sương núi buốt
Biết đâu anh chết cóng ở ngoài kia
Một nắm cơm. Đợi hãi hùng móng vuốt
Thú rừng hoang dọ dẫm bóng trăng khuya
 
Rừng. Và rừng. Thẳm sâu điều sợ hãi
Trong lòng em nỗi oan nghiệt vây chùng
Những đứa con ngóng em bên nhà ngoại
Anh mù tăm nơi chốn biệt nghìn trùng
 
Cơn đói rét đêm trắng đêm chờ đợi
Bạn đồng hành: thầm đếm thời gian trôi
Núi non ơi hun hút xa vời vợi
Xin tương phùng dẫu đành đoạn chia phôi
 
Cầu ơn phước cho chồng con được sống
Cho vẹn toàn thân thể của thuở xưa
Cho tâm trí còn biết điều trông ngóng
Đợi vợ hiền dẫu giông bão nắng mưa

Thi khúc 8:

Cuộc sống người “tù” và chồng vợ trong đoạn trường khúc 2

Bài thơ được viết theo lời kể chuyện của một người tù năm xưa trên một trại giam “tù cải tạo” gần thị trấn Thất Khê. Người tù ấy đã từng đứng trên đầu nguồn của dòng sông Kỳ Cùng, nhìn thấy hai dòng nước đục trong của con sông ấy rời quê mẹ Việt Nam và chảy ngược về hướng Trung quốc mà lòng xót xa… Hai màu nước đục trong tựa như thể Tổ Quốc Việt Nam đứng giữa hai dòng khác biệt để chẳng bao giờ có thể cùng hòa chung nhau một dòng nước.

Từ núi của cha chốn mênh mông
Từ quê đất mẹ một tấm lòng
Có dòng suối nhỏ lượn quanh quẩn
Đã hóa Kỳ Cùng một nhánh sông
 
Hai dòng trong đục bỏ quê cha
Thất Khê từ đấy biệt quan hà
Xót xa đôi ngả người Nam Bắc
Lạng Sơn muôn nẻo dặm đường xa
 
Người tù lặng lẽ ngắm dòng sông
Se sắt con tim nghẹn cõi lòng
Kỳ Cùng chảy ngược về xứ lạ
Nắng tắt hoàng hôn vợ ngóng chồng
 
Chiều thân tù ngục đứng ngó mong
Trùng trùng điệp điệp có buồn không
Đôi bờ sông của dòng ly biệt
Có biết đục trong chẳng chung dòng
 
Hồn thiêng sông núi của ngàn năm
Có rưng rưng khóc lệ âm thầm
Ngẩng mặt nhìn trời rừng Việt Bắc
Đây khúc giang đầu của Việt Nam…

Chạnh lòng Phạm Cẩn nhớ lại chuyện xưa…

Lầm lũi rừng mây thấp thoáng sương
Chạnh nhớ năm xưa bước sa trường
Giang sơn hùng khí hồi vọng tưởng
Sông núi chốn này, gãy đao thương
 
Người Nam ra Bắc: vùi thây lại
Người Bắc vô Nam: mộng bá đồ
Ngày đi: gian dối điều oan trái
Ngày về: còn lại nắm xương khô

Người chồng trong lao ngục:

Nơi chốn quạnh hiu của rừng núi trùng trùng sâu thẳm và giá rét bào xé thịt da khi cơn gió bấc về trên sườn núi, lan tỏa xuống thung lũng, rồi len lỏi tận cùng vào da thịt những người tù nằm co ro trong những lán trại trống hoác đợi gió lùa, có những đêm dài không đếm được ngày tháng, người tù đã cố gắng ngủ mà trong tiềm thức là sự hỗn loạn của những đọa đày….

Những đêm trường xen lẫn với bình minh
Ra đất Bắc là xuôi đường tử lộ
Đành nhắm mắt và khấn thầm mệnh số
Khấn rừng thiêng xin bảo hộ thân mình
 
Nơi anh ở chốn “trại tù cải tạo”!
Đếm từng ngày đợi ánh mặt trời lên
Ừ mình đấy, còn sống với tuổi tên
Nghe tiếng kẻng dậy khua vang lòng chảo
 
Đồi núi cao, thung lũng lạnh rợn người
Nhà lá cọ phủ vách rơm trộn đất
Ấm lạnh gì hỡi cùng trời cuối đất
Nắng mưa gì cũng nhúm da phơi
 
Giữa núi rừng là dãy nhà… lán trại
Giữa ngục tù là thầm lặng, phong ba
Nín câm đi – đợi ngày ta về lại
Từ oan khiên trăm vạn nỗi u hoài
 
Rồi làm bạn với trời xanh cao vói
Với rừng già sâu thẳm lạnh căm căm
Với côn trùng trốn chui nhủi âm thầm
(Kẻo mang họa chết trong tay “tù đói”!)
 
Rừng ở đó biết bao giờ trơ trụi
Sẽ thành nhà, thành mọi thứ thay cơm
Trằn trọc chi nhắm mắt ngủ với rơm
Ta và rận – cùng tù chung phận tủi
 
Từ địa ngục nghe tiếng ai vọng hú
Gió sương nào oan nghiệt phủ rừng hoang
Thân tả tơi, mắt tù đêm không ngủ
Rạ rơm buồn chua xót đọng tâm can
 
Nắng sấy khô những máu và tủi nhục
Những bóng ma còn lê lết bước chân
Những rách bươm “áo quần” thân tù ngục
Nắng mưa chi thêm khổ lụy bụi trần
 
Sống và chết trong oằn người uất hận
Nước sông kia – cơn khát nước quặn lòng
Nắng ngục tù, nắng hỡi sao tàn nhẫn
Thiêu đốt người giữa khổ ải mênh mông
 
Bên kia suối là cọng rau, ngọn cỏ                              
Biến chúng thành món mỹ vị cao lương
Thêm chút muối bồi bổ một nắm xương
Để chịu đựng ngón đòn thù “bên đó”
 
“Món ăn chính” là măng rừng muối hột
Đọt khoai mì, lát sắn mốc xanh xanh
Không bổ thịt cũng bổ cho xương cốt
Nuốt hờn căm, dẫu cõi thế treo mành
 
Cái bao tử được đo bằng “ngũ cốc”
Dăm ba thìa, miếng sắn cũng đầy thôi
Nhai chầm chậm kẻo chẳng còn mấy chốc
Mình được ăn, cũng như… no đấy rồi!
 
Chiếc lon gô nghe mằn mặn căm hờn
Sống hay Chết? Nhục vinh nào gột rửa
Bạn anh đấy chết buồn bên ánh lửa
Chết rét – nằm co quắp nỗi cô đơn
 
Khuya thao thức rỗng bụng tìm chai lọ
Hạt cơm tù… đếm mãi! Vẫn chưa no
Ngủ sao được, ngồi nhìn nhau một xó
Nhìn rệp bầy ăn cỗ, chúng sẽ no
 
Được nhóm lửa mỗi chiều về lán trại
Đã là niềm hạnh phúc thật lớn lao
Nấu gì ư? Dẫu một vài con nhái
Chút muối nêm nghe mặn đắng làm sao
 
Có những lúc chỉ pha trà uống đỡ
Bữa cơm chiều ngót nghét một muỗng thôi
Khơi lửa lên, cho ấm lòng tù tội
Gạo hẩm rồi, có mốc cũng làm ngơ
 
Xuân đại tiệc miếng da trâu già nhách
Cũng còn hơn không có chút “thịt” gì
Vùi trong lửa cho thơm và cho sạch
Bỏ vô “gô” nấu cho nở da bì
 
Dẫu suối lạnh vẫn là nơi tắm giặt
Trả lại bùn, trả lại đất… Ngày qua
Xin nhân từ hỡi cơn rét tháng Ba
Thân gầy đói, xương da đành héo hắt
 
Cửa ngục tù có bao giờ hoen rỉ
Khoen sắt kia có lặng lẽ khóc thầm
Ta với mi tù tội như nhau nhỉ?
Đếm trăng tròn niềm uất hận lặng câm
 
Đây mưa phùn, đây gió bấc Thượng Du
Sông chảy xiết và lá buông rừng lá
Núi khuất sương, lán nơi nào trăm ngả
Kẻng gọi anh, về với xích xiềng tù
 
Mai thức giấc mở mắt ra thấy vẫn …
Là mặt trời nóng hừng hực trên lưng
Là suối trôi cuốn người lội nửa chừng
Là tre, nứa, lồ ô, luồng tiêu chuẩn
 
Từ đồi, dốc nhìn luồng cao ngất nghểu
Hỏi trời cao, tù vác được bao nhiêu
Luồng trên vai chân bước lê thất thểu
Về láng đi – chiều ngả bóng xế chiều
 
Thung lũng chết, người tù và cõi chết
Núi cao chi sừng sững ở Cổng Trời
Đây tử địa, xóa đi ngàn dấu vết
Chốn tận cùng tuyệt vọng những tả tơi
 
Quấn trong “mền”, bảy nẹp tre để gói
Khiêng bạn tù mà chạnh nghĩ thân ta
Bạn nằm đó dẫu là rét tháng Ba
Vẫn hạnh phúc, chẳng lo no, no đói
 
Chôn kiểu nào cũng quay đầu về núi
Để ngậm hờn nuốt hận tháng ngày qua
Có bia mộ nằm giữa chốn rừng xa
Là may mắn hơn xác tù trôi suối
 
Sao núi rừng là ngục tù xiềng xích
Sao sông sâu cuốn trôi xác bạn mình
Sao thung lũng đầy súng thù của địch
Chắc đất trời theo vận nước điêu linh
 
Hỡi vinh nhục của một thời áo trận
Kiếm thép xưa nay lặng lẽ giữa rừng
Gầm lên đi hỡi non cao uất hận
Đếm ngày về nghe sao thấy dửng dưng
 
Vợ con là liều thuốc hồi sinh đấy
Ngày với đêm vẫn hy vọng đợi chờ
Miễn còn hồn xác, xương khô vậy
Phút sum vầy sẽ thực chứ không mơ
 
Qua Sông Lô, ga Hòa Hưng, Thanh Hóa
Chiếc túi đệm dăm ký vượt đường xa
Những viên thuốc, sữa, đường, món lạ
Đã lâu rồi quên cơm vợ quê nhà
 
Về lại hả… như giấc mơ thần thánh
Lên núi buồn ngồi xếp đá thành non
Thành nấm mộ chẳng khói nhang hiu quạnh
Trằn trọc khuya hiểu ra chuyện mất còn
 
Hỡi rừng thiêng giữ cốt xương tàn rụi
Giữ buồn vui, nước mắt lẫn hận thù
Thân ở lại khuất oan chìm góc núi…
Tâm người về thanh thản với thiên thu

Chinh phụ gặp chinh phu trong chốn lao tù: Đoạn trường khúc 13 năm

Còng tù tội khóa tay người vô tội
Suối nông sâu, triền dốc bóng tử thần
Bên kia bờ là địa ngục của người thân
Rừng tiếp nối, biết nơi nào ngược lối
 
Xe trâu chở những gói “quà” cột chặt
Chở gian truân qua sông suối, qua cầu
Chở vợ chồng rưng rưng tràn nước mắt
Nhìn mặt nhau nhớ giây phút tựa đầu
 
Nhìn tấm áo ngày ra đi bươm rách
Biết thân anh có tơi tả đòn thù
Đừng giấu em những tiêu tan hồn phách
Của những ngày anh “Nhất nhật thiên thu”
 
Thư em viết để trong hũ mắm ruốc
Gói ân tình chồng vợ vẫn tràn đầy
Mười lăm phút tưởng chừng chỉ phút giây
Nhìn nhau khuất… mà lòng đau quặn ruột
 
Khép cổng lại giờ thăm nuôi đã hết
Quay lưng rồi là đôi ngả phân ly
Chồng vợ đấy biết ai người sống chết
Chút thân tàn lặng lẽ gánh – bước đi
 
Bao nhiêu chữ nghĩa bể dâu
Trôi ra biển lớn, sông sâu cạn cùng
Trôi theo thác đổ lạnh lùng
Trôi theo mưa gió bão bùng tiễn nhau
 
Ở tù trong núi bấy lâu
Một ngày bỗng thấy đêm thâu rạng ngời
Thế gian chẳng có mặt trời
Cần chi… Nhắm mắt cuối đời vùi thây
 
Rừng ơi. Góc núi có hay
Ta thành sỏi đá chốn này như mi
Chút xương trắng hếu phân ly
Còn tinh anh lại, về đi mộng tàn
 
Vết đau như nứa cắt ngang
Núi sông còn lại… Đại ngàn. Bóng ma
Đến đây lầm lũi đường xa
Ra đi thinh lặng sương sa mé rừng
 
Chốn này địa ngục. Quay lưng
Thiên đàng mở cửa, mở từng nghiệt oan
Mở toang cùm xích nằm ngang
Ta theo hương khói nén nhang khấn thầm
 
Mở lòng thù hận trong tâm
Kẻ Nam, người Bắc – cõi âm dương rồi
Buộc khăn tang quấn mồ côi
Ai người cô phụ, con tôi dại khờ
 
Rưng rưng… thân xác cứng đờ
Gói trong manh chiếu hững hờ lạnh tanh
Gốc sồi dấu tích rừng xanh
Dăm ba nhát cuốc, phủ quanh nấm mồ
 
Còn tên tuổi gởi hư vô
Bạn tù chắc nhớ ướt khô chỗ nằm…

Thi khúc 9:

 Vinh danh người thiếu phụ

Trái tim người thiếu phụ đã đợi “chồng về” từ “Mười- Ba-Năm” trước – trong một lần người ra đi dặn dò: “Anh đi 1 tháng rồi về, em ở nhà trông con và giữ gìn sức khỏe, anh sẽ về!”, nhưng có ngờ đâu người đi tận mãi nghìn trùng phương Bắc, tận những nơi mang danh địa ngục xa lạ: Trại 3, trại 7 Hoàng Liên Sơn, trại Vĩnh Quang (Vĩnh Phú), Trại Hàm Tân Z 30 D…v…v… nhiều không kể xiết.

“Mười-Ba-Năm” viết trong dấu ngoặc kép là nỗi đoạn trường của một người vợ tù CS, là khúc đời gãy đôi của hai người bạn lòng đang độ xuân sắc, mặn nồng, là đôi bờ cách ngăn và vọng tưởng, là chữ “Sống” và chữ “Chết” về trong ý nghĩ của đôi vợ chồng trong từng ngày dài, từng đêm thức trắng…

Một đời thiếu phụ sắt son
Lụa đào môi thắm đâu còn Mẹ ơi…
Tiếng ai vọng lại ru hời
Giữ câu chung thủy cho đời mai sau
 
Tóc xanh nay đã bạc màu
Phấn hương trang điểm dãi dầu ly hương
Trăm năm phiến đá vô thường
Khắc tên lưu lại chặng đường tử sinh
 
Xác thân thôi đã dặm nghìn
Xa chồng con, chốn đăng trình viễn du
Bao mùa lá rụng biệt mù
Gió bay cát bụi thiên thu chốn này….

Thi khúc 10:

Lời kết dành cho mảnh “Lụa đào sắt son”

Hỡi rừng thiêng nước độc vùng Việt Bắc, xin trả lại núi rừng những giọt nước mắt khổ đau của kiếp tù, cũng như xin nguyện cầu cho muôn vàn số phận người không may đã không có cơ hội rời xa chốn ấy, sẽ theo mây trời về lại chốn cũ lúc ra đi mà đoàn tụ với những người thân thương của mình.

hoa dep 7

Xin được trang trọng nâng niu mảnh “Lụa đào Kim Anh” mãi một lòng Sắt Son với nghĩa tình trăm năm phu phụ.

Mẹ ơi…
Đây di ảnh của tháng ngày xưa cũ
Đây phấn son của riêng Mẹ thuở nào
Thôi bình yên Mẹ ngàn năm yên ngủ
Trả lại đời muôn vạn nỗi trầm hao
 
Màu áo lụa thuở má đào son sắc
Mấy mươi năm chung thủy một tấm lòng
Như vầng trăng soi kiếp người vằng vặc
Chữ thương yêu trong ấm lạnh mặn nồng

Hương rừng từ sâu thẳm phương Bắc bay về phương Nam như nén hương lòng ngưỡng mộ vuông Lụa Đào đã lặn lội tìm chồng nơi chốn tù ngục xa xăm ở đầu nguồn Tổ quốc.

Ai người xưa đợi chồng về
Lụa Đào vạn dặm phu thê vuông tròn
Thăm chồng phương Bắc lối mòn
Tích xưa lưu lại vẫn còn Vọng Phu
 
 
Như Thương
(Viết xong 30/4/ 2017)

 

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com