User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
hon kem da dung 6 1
 
Tiếng hát thanh tao giữa đêm trăng nghe hấp dẫn Thế Tử Nguyễn Phước Lan cho thuyền cập bến, nơi đó là bãi đất trồng dâu ở ven sông thuộc gành Ðiện Châu còn gọi là An Phú Tây thuộc quận Ðiện Bàn ngày nay. Khi lên bờ Thế Tử gặp thiếu nữ 16 tuổi xinh đẹp đang hái dâu dưới ánh trăng vàng. Nguyễn Phước Lan đến với nàng, như hai tầng số tâm hồn gặp nhau, tình yêu đến thật tình cờ không hẹn ước phải chăng đó là duyên nợ định mệnh an bài. Sãi vương cho phép Nguyễn Phước Lan làm lễ thành hôn với nàng “hái dâu” là Ðoàn Thị Ngọc con gái thứ 3 của quận công Ðoàn Công Nhạn quê Ðiện Bàn.

Thế Tử xin Chúa cho phép nàng được vào hầu trong phủ. Kể từ đó, bà trở thành phu nhân Thế tử. Nguyễn Phước Lan nối ngôi Chúa (1635-1648) là Công Thượng Vương, bà Ðoàn Thị Ngọc được Sãi vương sủng ái đưa lên chánh phi, phong Hiếu Chiêu Hoàng Hậu. Bà trở thành Chính Phu Nhân, sanh ra chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1619-†1687) bà là người công dung ngôn hạnh vẹn toàn nên rất được Chúa sủng ái và được mọi người trong phủ kính yêu. Bà mất năm Tân Sửu (†1661), lăng bà tại Gò Cốc Hùng, núi Chiêm Sơn, Quảng Nam.

Ca dao là di sản văn hóa, văn chương bác học của dân tộc Việt Nam là những câu hát bình dân thông thường trong sinh hoạt xã hội. Ðược truyền tụng từ đời nầy sang đời khác, ca dao mang mọi hình thái khác nhau theo thời gian, diễn tả mọi sinh hoạt đời sống như cảnh tang thương mất mát và chí khí hào hùng trong đấu tranh giành lại độc lập, tự do của dân tộc hoặc nói lên tình yêu thiết tha hay tiếng thở dài vì tuyệt vọng của tuổi xuân nam nữ, là nỗi buồn chia tay của tuổi học trò, là tấm lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ.

Từ thế kỷ thứ 17 người Quảng Nam tiếp xúc nhiều với văn minh ngoại quốc như Trung Hoa có nền văn hóa lâu đời, ngược lại Tây Phương có tài về khoa học kỹ thuật bởi thế không có gì lạ khi dân Quảng Nam có một sự hiểu biết đa diện. … Tổ tiên khi xưa đặt chân đến nhận vùng đất Chiêm Thành để lập nghiệp với bản tính can đảm, cần cù thích canh tân tiến bộ trong tình thần dân chủ, cởi mở, thích phát biểu ý kiến… từ vùng đất mới khai phá đã tạo nên miền đất hứa. Ai nói điều gì mơ hồ không có dẫn chứng đúng thường bị cãi lại ngay. Cãi trở nên truyền thống của người Quảng Nam, bởi thế ca dao có nói về cá tính trong sinh hoạt xã hội:

Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay lo
Bình Ðịnh nằm co, Thừa Thiên ăn hết

Ðời sống gia đình, tình yêu mộc mạc của vợ hiền đảm đang việc nhà, dành thì giờ cho chồng yên chí học hành, đỗ đạt ra giúp đời, hay hai người chỉ mới yêu nhau nhưng chờ ngày bái tổ vinh qui. Ngày xưa các thí sinh Quảng Nam, phải vượt đèo Ải Vân ra Huế dự các kỳ thi do triều đình tổ chức, con nhà giàu đi ngựa, nghèo thì đi bộ có người gánh phụ hành trang. Các chàng trai ra Huế thấy nàng gái Huế qua cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp, với áo dài và mái tóc thề tung bay trong gió nhẹ của sông Hương khác với hình ảnh người yêu hay vợ hiền ở Quê nhà trong cái nhìn ngẩn ngơ:

Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế chân đi không đành.

Sau nầy trai Quảng Nam ra Huế học Ðại Học không còn ngẩn ngơ, đến nổi đi không đành như các cụ ngày xưa, học xong ra trường đi làm việc khắp nơi, không giới hạn làm quan ở triều đình Huế. Những thành phố Hội An, Ðà Nẵng, Tam Kỳ trở nên sầm uất, các nàng gái xứ Quảng cũng xinh đẹp, văn minh dịu dàng… nên các chàng đổi lại chữ “thấy “ ra  chữ  ”mấy”. Tình yêu lòng thủy chung thường nhắc đến, dù học hành đỗ đạt làm quan, đừng quên tình yêu thuở ban đầu lưu luyến ấy.

Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Cho anh đọc sách cho nàng quay tơ
Quay tơ vẫn giữ mối tơ,
Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh.

Non non, nước nước khơi chừng
Ái ân đôi chữ xin đừng quên nhau

Tình sâu mong trả nghĩa đền
Ðừng vui chốn khác mà quên chốn nầy

Vợ chồng quê ngày ngày bận rộn việc ruộng đồng, ban đêm còn tranh thủ thời gian làm thêm việc nhà, không mong ước gì cao xa ngoài lòng chung thủy 

Ðêm hè gió mát, trăng thanh
Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp chừng

Lạt chẳng mỏng sao thừng được tốt
Duyên đôi ta đã trót cùng nhau

Trăm năm thề những bạc đầu
Chớ ham phú quí đi cầu trăng hoa.

Tình yêu khép kín trong lễ giáo gia đình „tình trong như đã, mặt ngoài còn e” nhưng tình yêu của phố Hội An cũng lãng mạn dành cho thi nhân và khách vãng lai

Ai đi phố Hội, Chùa Cầu
Ðể thương, để nhớ, để sầu cho ai,
Ðể sầu cho khách vãng lai,
Ðể thương để nhớ cho ai chịu sầu

Hội An nơi hẹn hò của các cặp nhân tình trong các mùa làm việc chung với nhau

Thương nhau chớ quá e dè,
Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be.
Thiếp nói thì chàng phải nghe
Thức khuya, dậy sớm, làm chè 10 ngày 12 xu

Mãn mùa chè, nệm cuốn sàn treo
Ta về, bỏ bạn, cheo leo một mình,
Bạn ơi, bạn chớ phiền tình,
Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau

Lạy trời, mưa xuống cho mau
Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp nhau

Tình yêu có thể vượt không gian và thời gian không còn ngăn sông cách núi dù ở đâu cũng có thể tìm đến, ngày xưa thiếu phương tiện giao thông, phải vượt núi đèo tìm đến với người yêu trong đời sống mộc mạc của hoa đồng cỏ nội, hay trên đồi sim tím

Ðói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người yêu (thương)

hay

Thương nhau, mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua  
     

Khoảng cách không thể so sánh với tình yêu, đường xa cách trở có thể thâu gần lại

Rằng xa: cửa ngõ cũng xa
Rằng gần: Vĩnh Ðiện, La Qua cũng gần

(thị trấn Vĩnh Điện, La Qua thuộc quận Điện bàn, Quảng Nam)

Thân phận con gái đi lấy chồng, nhưng hình ảnh sinh hoạt trong gia đình không thể quên dù được sống hạnh phúc bên chồng, nhưng đôi lúc chạnh lòng nhớ thương cha mẹ

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Chiều chiều mây phủ Ải vân
Chim kêu gành đá, gẫm thân lại buồn

Hay

Chiều chiều mây phủ Sơn trà
Lòng ta thương bạn, nước mắt và lộn cơm

Người Quảng Nam tính tình cương trực, nói thẳng không giấu giếm nỗi lòng, trong tình yêu gia đình, xã hội đạo làm người luôn được tuyệt đối tôn trọng

Ðối với ai ơn trọng, nghĩa dày
Một hột cơm cũng nhớ
Một gáo nước đầy vẫn chưa quên

Người chồng vì bổn phận đi xa, vợ hiền lo gánh vác việc nhà nuôi con phụng dưỡng mẹ già, giữ lòng thủy chung, mong ước ngày đoàn tụ dưới mái ấm gia đình để con có mẹ có cha. Truyền thống đàn bà Việt Nam hy sinh giúp chồng mong làm nên sự nghiệp, vợ khôn ngoan làm quan cho chồng, tiễn đưa chồng ra đi không phải là những nụ hôn nồng nàn, nhưng là lời nhắc nhủ 

Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ
Lầm than bao quản muối dưa
Anh đi! anh liệu chen chân với đời
Ðứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông
Thấy nước xanh như tàu lá,
Ðứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn
Thấy phố xá nghinh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn,
Ðào sông Cù Nhĩ, tìm vàng Bông Miêu.
Dặn tấm lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu,
Ở nuôi Thầy Mẹ, sớm chiều cũng có anh

Các địa danh Tý Sé Hòn Kẻm, Ðá Dừng là thắng cảnh đẹp và thơ mộng, thuộc địa phận xã Hiệp Hòa, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam, cách Đà Nẵng chừng 100km. Tôi chưa một lần bước chân đến đó. Xem bản đồ Quảng Nam địa danh nầy từ thượng nguồn chảy qua giữa quận Quế Sơn và Ðại Lộc, nhưng thuở xa xưa có thể người ta đến đó làm việc, trên sông dưới nước với cảnh khỉ ho cò gáy, nhớ về Mẹ là nhớ về cuội nguồn dân tộc

Ngó lên Hòn Kẽm, Ðá Dừng,
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi

Công ơn sinh thành của cha mẹ cao như trời, rộng như biển, con cái có lòng hiếu thảo đó là nguồn an ủi đối với cha mẹ lúc tuổi già. Nhắc lại tình mẫu tử cao quý, qua kinh nghiệm cuộc sống nhắn gởi ai còn cha mẹ nên giử lòng hiếu thảo.  

Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao Mẫu từ

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Mẹ hiền thường răng dạy con gái qua ca dao như thứ luân lý thực hành

Mình là con gái trong nhà
Hình dung yểu điệu nết na dịu dàng
Khi ăn khi nói chững chàng
Khi ngồi khi đứng bĩ bàng dung nghi

Sống với quê nhà bên lũy tre xanh, trên con đường làng bé nhỏ, hay phải đi xa một phương trời nào, khó có thể quên được quê hương xứ Quảng, kỷ niệm gắn bó cuộc đời, sau năm 1975 làn sóng bỏ nước ra đi tìm tự do, được định cư khắp nơi trên Thế giới, hội nhập vào văn minh xứ người, nhưng nỗi lòng người viễn xứ vẫn canh cánh bên lòng nhớ thương về quê Mẹ, mỗi địa phương mang một đặc thù riêng

Ai đi cách trở sơn khê
Nhớ tô Mì Quảng, tình quê mặn nồng

Hội An đất hẹp, người đông
Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu

Hội An bán gấm, bán điều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành

Chiêm Sơn là lụa mỹ miều
Sớm mai mắc cửi, chiều chiều bán tơ

Chồng em là lái buôn tiêu
Ði lên đi xuống Trà Nhiêu, Kim Bồng

Dãy Trường Sơn chạy dọc theo bờ biển từ Nam Ô cho tới Chu Lai phần lớn dân số sống về nông nghiệp và ngư phủ cùng nhau góp phần vào phát triển kinh tế.  Sinh hoạt của những thế kỷ trước vì chiến tranh, phương tiện giao thông không được như ngày nay, bởi vậy các quận trên nguồn như Tiên Phước, Quế Sơn… muốn ăn cá phải mua cá hấp chín, bán vào các buổi chợ sớm, các loại mắm người miền biển gánh lên nguồn đổi lấy ngũ cốc, tùy theo các mùa, nhưng loại cá chuồn, người ta thường làm thính hay hấp, cá chuồn nấu với mít non một đặc sản ngon tuyệt vời

Ai về nhắn với ngọn nguồn
Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên

Trái bòn bon bé nhỏ nhưng có hương vị ngọt, ngày xưa khi vua Gia Long hái ăn lúc vượt núi băng ngàn để chống lại nhà Tây Sơn. Thống nhất Sơn Hà 1802“, để nhớ lại lúc thiếu lương thực nhà vua và quân lính thường hái các trái cây trên đặt tên trái bòn bon là „Nam Trân“ trái Măng Cụt (có tên khoa học là Garcinia mangostan, còn có tên tiếng Anh thường dùng là mangosteen, mankut… được trồng phổ biến ở rất nhiều nước nằm trong vành đai nhiệt đới). tại miền Nam tên là „Giáng Châu“.

Trái bòn bon trong tròn ngoài méo
Trái thầu dầu trong héo ngoài tươi
Em thương anh ít nói ít cười
Ôm duyên ngồi đợi chím mười con trăng

Vùng biển cát trắng Nam Ô nằm dưới chân đèo Ải Vân, sản xuất nước mắn ngon không thua gì Phú Quốc hay Phan Thiết. Chúng ta ít nhất một lần ăn dưa cải muối với nước mắn Nam Ô

Nói cho lắm cũng nước mắm dưa cải
Nói cho phải cũng dưa cải nước mắm

Tường Linh có những vần thơ đi vào văn học:

Ðêm Ðà Nẵng vọng về cơn gió biển
Bún chợ Chùa thương nước mắm Nam Ô

Quận Hòa Vang giáp Ðà Nẵng có bến xe Ðò Xu, ngã ba Hòa Cầm Cẩm Lệ nơi sản xuất nem, tôi không hút thuốc nhưng nghe người ta thường nói nơi nầy nổi tiếng một vùng trồng thuốc thơm ngon, gọi là thuốc lá Cẩm Lệ các vùng Thanh Quít cũng trồng cau, thuốc lá được các ghe thương gia tới mua bán

Tơ cau thuốc lá đầy ghe
Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần.

Hội An có bánh tổ một đặc sản, vùng Tiên Ðỏa từ Hương An trở vào cho đến quận Thăng Bình vùng cát trắng phau thích hợp cho việc trồng khoai lang.

Nem chả Hòa Vang
Bánh tổ Hội An
Khoai lang Tiên Ðỏa
Thơm rượu Tam Kỳ

Quận Trà My Quảng Nam trồng Quế vỏ nhiều dầu, phẩm chất cao đặc sản nổi tiếng, các nơi khác trồng nhưng có thể xa khí hậu phong thổ phẩm chất kém, bởi vậy khó nơi nào sánh bằng,

Quế Trà My thứ cay thứ ngọt
Bởi anh thợ rừng mới lọt tay anh
Phàn du, bạch chỉ rành rành
Cân tiểu ly mới xứng, ngọc liên thành mới cân

Quế sản phẩm giá trị và Yến ở cù Lao Chàm nổi tiếng thơm ngon và đắt tiền

Ðầy hàng tháng ngát mùi hương
Sửa quế người xem khá rộn ràng
Số chở hàng năm khôn kể xiết,
Bán xong lại đến lấy thêm hàng.

Lời ru ngọt ngào của mẹ hiền, tiếng ru à ời tha thiết âm thanh kéo dài, trong những trưa hè nắng gắt, ru cho con giấc ngủ bình yên, liên khúc ca dao trữ tình như lời nhắn nhủ, lớn lên phải khôn ngoan vào đời. Nhờ truyền khẩu nên các bà thuộc lòng các câu ca dao kết hợp lại thành liên khúc ru con:

Ru con con thét cho muồi
Ðể mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam phổ mua trầu chợ Dinh

(Tùy theo mỗi điạ phương có thể thay đổi tên chợ)

Công cha nghĩa mẹ chớ quên
Ơn vua lộc nước mong đền con ơi

Như vầy mới gọi rằng trai
Trên lo nghĩa Chúa, dưới mài Thảo thân.

Các nàng được ví von như tấm lụa đào xinh đẹp, như những giọt mưa sa mỗi độ xuân về, con gái dịu dàng tha thước, nhưng thân phận so sánh như 12 bến nước trong nhờ đục chịu, tình yêu duyên nợ cột vào với nhau, tình yêu chỉ là giấc mơ cho phương trời viễn mộng? Ngày xưa chịu ảnh hưởng gia đình “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” nhưng có câu „ép dầu ép mở ai nở ép duyên”.

Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Thân em như hạt mưa rào
Hạt sa bãi cát, hạt vào vườn hoa
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đồng nội, hạt sa vũng lầy.

Quảng Nam có những trang sử oai hùng và bi đát, qua các cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp. Tình thần yêu nước hy sinh của sĩ phu và những người dân quê, họ sống trên cánh đồng lúa bờ dâu, hiền từ chất phác không hận thù. Thời Pháp thuộc bị bóc lột đến tận xương tủy, nên mọi người cùng nắm tay nhau lên đường đấu tranh. Phong trào đấu tranh xin xâu giảm thuế phát xuất tại Quảng Nam đánh dấu một kỷ nguyên mới dưới thời nô lệ.

Ðất Quảng Nam từ năm Bính Ngọ (1906)
Xâu ngũ nhật, công sưu công ích, đường trường làm tột núi cao
Thuế bách phân gia ngũ gia tam, đủ ngón vét từng xu nhỏ
Mãi tới xuân nầy (1908) cực đà hết chỗ,
Ra tết trời làm tai biến, hạn hán tiêu khô
Nhiều nơi đất bỏ hoang dân tình đói khổ.

Làng sóng đấu tranh nổi lên toàn tỉnh Quảng Nam sau đó kéo dài các tỉnh miền Trung

Ðời ông cho tới đời cha
Ðời nào cực khổ như ta đời nầy
Ngoài đồng cắm cọc giăng dây
Vườn nhà đóng thuế, vợ gầy con khô.

Ðời xưa thuế một quan năm
Ðời nay thuế lại hai đồng bốn giác
Con tay bồng tay dắt
Vợ tay đỡ tay mang
Vui chi mà hát mà mừng
Mua ngày mà ở cầm chừng với Tây

Từ ngày Tây chiếm Ðế đô
Xâu cao thuế nặng, biết chừng mô hỡi trời!
Còn lo một nỗi khổ đời
Quan trên ỷ thế nặng lời hiếp dân.

Kể từ Ðồn Nhất kể vô
Liên Chiểu, Thủy Tú, Nam Ô, xuống Hàn
Hà Thân, Quán Cái, Mân Quang
Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra
Ngó lên chợ Tổng bao xa
Bước qua Phú Thượng, Ðại La, Cồn Dầu

Cẩm Sa, Chợ Vải, Câu Lâu
Ngó lên đường cá, thấy cầu Giáp năm
Bây chừ, thiếp viếng, chàng thăm,
Ở cho trọn nghĩa, cắn tăm nằm chờ.

Thời tiết các năm ấy hạn hán bị mất mùa, thu hoạch ngũ cốc chưa đủ sống, nhưng bọn tay sai thâu thuế lấy xâu không nương tay, chỉ muốn thu tiền cho đầy túi dâng cho bọn thực dân hưởng thụ, bắt dân phu đi làm đường đào mỏ, sống chết mặc bây. Người dân Quảng Nam không chịu đựng cảnh người bóc lột người của thời nô lệ, từ đó họ đã biến đau thương thành hành động

Tháng Giêng cho chí tháng Hai
Con dân áo rách quần xài đi ra
Mười lăm cho đến ông già
Cơm đùm, ruột tượng, xuống tòa lãnh ban
 
Chức sắc cho chí diên quan
Làm đơn kêu gọi các làng xin xâu
Kể từ cầu Ông Bộ kể ra
Cây Trâm, Trà Lý, bước qua Bà Bầu
 
Tam Kỳ, Chợ Vạn, Thầu Đâu,
Ngó qua đường cái, thấy lầu ông Tây
Chiên Ðàn, Chợ mới gần đây,
Kế Xuyên mua bán, Đông Tây rộn ràng
 
Hà Lam gần sát Phủ Ðàng,
Phía ngoài bãi cát, Hương an nằm dài,
Cầu cho gái sắc, trai tài.
Chung lòng xây dựng, tương lai huy hoàng

Thực dân Pháp và tay sai đàn áp các cuộc biểu tình xin xâu kháng thuế, nhiều người bị kết án tử hình, trong đó Ông Ích Ðường cháu nội Ông Ích Kiêm bị bắt tử hình ở Túy Loan. Ông trùm Thuyết bị chém vì hô những tiếng lớn lên án Trần Tuệ chuyên ăn hối lộ làm cho Đề Đốc Trần Tuệ tay sai đắc lực với Pháp sợ quá hộc máu mà chết. Tiếng hô uất hận của dân tộc lầm than, đói khổ bị đè nén lâu ngày, tiếng hét được mọi người hưởng ứng để đánh đổ bạo quyền và tay sai. Nên ca dao, vè đấu tranh lưu truyền mãi mãi.

Cậu Ðường mười tám tuổi đầu
Dẫn dân công ích xin xâu dưới tòa
Bắt anh trùm Thuyết dẫn ra,
Dẫn ra dân tưởng quan tha cho về
Chém anh trùm Thuyết gớm ghê
Gươm đao âm phủ ba bốn bề cách xa

Các Phong trào chống thực dân dù bị đánh dẹp, không tránh khỏi cảnh bất công trả thù, gông cùm tù đày bắt bớ, chém đầu, máu của dân tộc Việt Nam đổ ra khá nhiều, riêng tại Quảng Nam phong trào trên làm cho chính sách của bọn thực dân phải chùn bước. Phan Châu Trinh (1872 -†1926) Huỳnh Thúc Kháng (1876-†1947), Nguyễn Thành (1863-1†911) đều bị bắt cùng nhiều người khác đày ra Côn đảo. Trần Quý Cáp (1870-†1908)

Ca dao mang chúng ta trở về nơi xa mù quá khứ, hoài nhớ lại kỷ niệm của tuổi thơ được nghe tiếng hát mẹ hiền. Kỷ niệm như đang len lỏi vào hồn, như khởi dậy nỗi niềm xa xứ, nhắc nhở chúng ta đừng quên cội nguồn. đừng quên bổn phận với Quê hương bên kia bờ Ðại dương.

Nguyễn Quý Đại (Münich Germany)

 

Tìm các bài BIÊN KHẢO khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com