User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
ditan
 
Bầu trời xanh lơ điểm những hoa mây trắng quỳ gối trên mặt hồ Xuân Hương sáng loáng như tráng men, rồi mây kéo lê thê bay vắt qua sườn đồi buồn thiu, mây lang thang trên con đường mòn đất đỏ vắng tanh, mây bò lên sườn dốc đầy cỏ vàng úa. Trong vùng sương mù và mây trắng xóa, tôi an phận đi và về giữa tiếng tíu tít và giọng cười nắc nẻ của các cô gái lí lắc vui tươi ôm cặp tới trường. Cái lạnh mơn man lành lạnh ơn ớn len lén bay về làm tê tê bờ môi, khiến hai gò má phụ nữ và trẻ em luôn ửng hồng. Những tà áo dài trắng hòa với sương mai mờ mờ lung linh quyện lẫn nhau trong màn sương mênh mông.
 
Mây và sương ru tôi vào mộng tưởng hoài mong luyến nhớ vô vàn... Tôi chợt cảm thấy lòng mình ấm lại những niềm vui khi ngày ngày bình an, ung dung vui vẻ từ nhà đi trên đường quen thuộc tới nơi dạy học. Tôi đã có gia đình, chồng tôi (Luật) phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hạnh phúc đơn sơ ấy chẳng có được bao lâu, nay sương muối mù mù nặng hột thấm ướt mái tóc. Tôi đứng lớp giảng bài thì lịch sử Việt Nam còng lưng vác trên vai những tang thương đau đớn, giày vò, bi thảm tàn khốc nhứt trong cuộc chiến tranh xâm lăng từ bọn việt cộng hung tàn.
 
Luật hớt hải chạy giữa khung cửa kính kêu rè rè bể loảng xoảng, nâng nỗi khiếp sợ lên giếng mắt nhau. Ngoài xa, xa tận hướng Du Sinh, Suối Vàng từng hồi pháo kích đì đùng nổ rền trời. Khói đen nghịt kéo theo mùi cháy khét, tởm lợm cùng sức nóng rợn người. Có điều gì lo nghĩ đắn đo phiền muộn hay sao, mà khi anh nhìn vô giếng mắt tôi, Luật vội vàng cúi cụp chơm chớp hai giọt mọng nước đọng trên khoé mắt, anh báo tin động trời chẳng lành:
 
- Mười ơi! Có lịnh báo cho quân đội di tản ông già bà lão, phụ nữ, trẻ con đi gấp. Còn toàn thể quân nhân, cảnh sát, nam công chức, tuyệt đối "phải tử thủ tại Đà Lạt".
 
Cảm thấy rụng rời dật dờ bàng hoàng như sét đánh ngang tai, tôi sực nhớ chuyện động trời: ngày 9 tháng 3 năm 1974, tại trường Tiểu Học Cai Lậy có loạt đạn pháo 82 ly nổ rền. Ôi! trên truyền hình có đoạn thời sự đã chiếu đi chiếu lại: thấy trăm trẻ em vô tội chết đau đớn thảm thiết, thương tâm xiết bao! Bỗng dưng tôi lại nhớ khoảng năm 1973 người ta ùn ùn leo núi Lâm Viên: xin nước của Phật Bà cho bá tánh hầu trị tà ma bịnh tật. Bà chị ruột của tôi vất vả nhọc nhằn leo núi khổ sở đi, khệ nệ bưng về mấy bình nước. Nay thì... "nước" chẳng thể dùng.
 
Và nữa… một số thị dân Đà Lạt đều biết: từ nhiều cánh rừng xa hun hút, suốt ngày đêm xuất hiện đàn sâu rọm nối đuôi nhau lũ lượt kéo xuống biển. Sâu chết la liệt trên đường (lúc băng qua đường). Những xe hơi đi từ Đà Lạt xuống Phan Rang… đều thấy. Tôi không biết chuyện tiên tri về đoàn sâu rọm và đoàn người bỏ núi rừng băng đường vượt sông ùn ùn ra biển, thực hư ra sao. Tuy nhiên tôi tin nếu ai đã từng sinh sống ở vùng Đà Lạt thời ấy đều biết, hoặc nghe rõ về chuyện Phật Bà hiện ra. Chuyện mặt trời xoay quanh bà tiên mặc áo lụa trắng thắt lưng xanh, tay bồng hài nhi đứng trong vầng mây... và đoàn sâu rọm nườm nượp đi xuống vùng biển.
 
Tôi chưa biết tình hình náo động nầy sẽ ra sao khi ôm nhau chạy về nơi vô định, nên tôi càng run sợ tột cùng! Tôi thều thào dặn dò học sinh thu dọn sách vở lo chạy mau về với gia đình. Trường tôi có cô Túy Phùng dạy học sát bên vách lớp. Phùng xin tôi cho vợ chồng và đứa con nhỏ đi theo. Chúng tôi đồng ý cho họ đi nhờ xe nhà của mình về Nha Trang. Vì Phùng không có phương tiện di chuyển, mọi ngả đường bộ về Sài Gòn bị phong tỏa kẹt cứng. Chỉ còn quốc lộ chính từ Đà Lạt xuôi về miệt Phan Rang, Nha Trang... chưa bế tắc. Nếu ai may mắn thì chủ xe đò cho ngồi trên mui, nhưng giá tiền một người cao gấp mười lần, ngoại trừ ai có xe nhà. Chính phủ đã trưng dụng hàng không quân sự và dân sự để làm việc cấp bách cần thiết khác.
 
Vợ chồng tôi vội leo lên chiếc Peugeot 404 chạy về nhà. Đồ đạc trong nhà đầy dẫy! Tôi lính quýnh quờ quạng run rẩy không biết lấy thứ gì? Làm sao có thể gom đi cả gia tài đã dành dụm suốt đời người trong chiếc xe bé tí xíu? Luật la:
 
- Mau lên em. Bỏ của chạy lấy người. Còn người còn của mà em. Mẹ, em và các con lo đi đi. Anh ở đây sẽ tìm cách gởi mọi thứ cần thiết theo xe đò về Nha Trang, cho mẹ con em cần dùng sau.
 
Trong khi chờ đợi tôi thu xếp hành trang, tôi dặn dò các con Dzũng, Tuấn, Huy lấy sách vở viết, và giấy tờ cá nhân cần thiết, bỏ vô cặp riêng đem theo. Tôi không còn tâm trí làm gì, lấy cái nầy thì tiếc cái kia. Vì ngôi nhà đồ sộ ba tầng lầu đúc bê tông cốt sắt lót gạch bông dài 45m rộng phủ lòng 5m, sẽ buồn tênh và trống trải mất mát hết khi vắng chủ nhân. Có thể ngôi nhà sẽ không đón chúng tôi trở về. Mặc dù tôi đã để lại hết tất cả gia tài cồng kềnh quý giá, do công khó cực nhọc bao năm mà vợ chồng tằn tiện xây dựng mua sắm.
 
Tôi không giàu có lắm nhưng giờ đây thứ gì cũng có thể không còn, -tuy sự cần cù nhẫn nại chịu đựng lao khó và lòng tin yêu, độ lượng cùng tự trọng, thì tôi không thiếu-. Cái gì đời cũng ưu ái tặng tôi sao!? Nhưng chưa chắc bây giờ tôi cần những thứ đó. Giống như chiếc xe thổ mộ đã chở quá đầy hàng, nếu chất thêm vài trái dưa, chẳng biết xe và dưa sẽ đổ lăn mất lúc nào. Vậy thì ta nên giữ lại thứ gì thật sự cần thiết lúc khẩn cấp mà thôi.
 
Tôi lo nấu hai nồi cơm hơi nhão thiệt to, dùng khăn ẩm nhào kỹ rồi vắt ra từng nắm nhỏ. Tôi gói chà bông, ký lạp xưởng, khô cá, khô bò, hai kí giò lụa, dưa leo, cà chua, cà rốt, rau sống, hai thùng mì gói, mười bọc cơm sấy, mấy ổ bánh mì ba tê gan và bơ sữa, tiêu, xì dầu, muối, đường... Có sẵn nồi xôi đậu xanh, nồi cá thu kho măng với thịt ba rọi ngày hôm trước còn dư, cả nồi trứng thịt heo kho Tàu đầy, do mẹ Luật đã nấu hồi sáng. Vừa làm các công việc trên, tôi bồn chồn lo lắng, bồi hồi, luyến tiếc về sự ra đi. Bởi vì tôi không thể biết cuộc ra đi sẽ lành dữ ra sao, các con dại cùng đi với bạn hữu hai mươi mấy người (chung chuyến ở ba chiếc xe khác). Nếu bị lỡ đường, chúng tôi sẽ có thức ăn chia sẻ cho nhau lót dạ. Tôi khiêng một thùng nhựa 20 lít nước lọc ra sân. Hai cái bô có nắp đậy. Mùng, mền, quần áo len, quần áo mỏng, giày, dép, linh tinh... cho mẹ chồng, tôi, và các con chu đáo, tươm tất.
 
Luật kiểm soát xe cộ, châm xăng, dầu nhớt vô xe hơi đầy đủ, anh mua trữ một can xăng để sau cốp. Luật chạy vô Hà Đông báo tin cho cậu Cương, ông Tề lo di tản. Thật là tội, ở trong ấp mù tịt chuyện thời sự náo loạn, họ ung dung đi tưới rau, không hề biết ngoài phố nhốn nháo ra sao. Luật phải đưa cậu Cương ra phố bán hai cây vàng. Cầm đồng tiền giấy nhẹ, có thể mua gì cũng được, hơn cầm cả thỏi vàng, chẳng lẽ mua ly trà, ly nước dừa, mà đưa cả chỉ vàng, hay cả lượng vàng ra? mất toi mạng như chơi. Có mà điên! Hầu hết các tiệm vàng trả giá rẻ mạc, hai cây vàng mà họ mua ép giá bốn chục ngàn. Cậu năn nỉ hoài không ai thèm mua giúp.
 
May sao có Kim chủ tiệm vàng ở Tùng Nghĩa tới nhà chờ đi chung mua giúp cậu. Kim chạy giặc có những bọc vải ruột tượng đựng vàng nặng trĩu. Họ rất sợ mất toi mạng vì thời buổi loạn ly mà Kim có đống vàng chình ình kia, chẳng khác nào “lạy ông tui ở bụi nầy” không thu dú đâu được. Gia đình Kim cần đi chung với bạn thân, là điều rất mừng Kim tin họ, anh sẽ gởi nhờ bạn mang bớt mấy bọc vàng, Kim không sợ bị cướp giật giữa đường. Kim móc túi lấy bốn trăm ngàn đưa cậu, đó là anh coi như Kim cho cậu tiền, chớ không phải anh mua vàng. Cậu của Luật vui mừng khôn xiết, cậu lo chạy về nhà thu xếp.
 
Các bạn thân hẹn tập họp ở nhà tôi đúng hai giờ chiều là lên đường. Dưới chân đèo Krong Pha ngó lên Đà Lạt tít mù cao, bè mây trắng xoá kéo thành một dong dài, mong manh lả lơi hơi sương quấn ngang đồi thông tiếp nối đồi thông rủ tóc, trải thành dải sô tang quấn trên triền quê hương. Đồi thông từ từ khép bức màn mây mỏng dính trong gió rì rào lao xao lay động cây cành nghiêng ngả. Rừng lá thấp xưa kia xanh thẫm mịt mùng ngút ngàn bao cây gỗ quý, hôm nay hầu hết cây cối xơ xác. Tôi thực sự xa nơi chôn nhau cắt rún. Nơi đó còn cha mẹ, anh, chị, các cháu, chồng tôi (anh nghe lịnh cấp trên phải ở lại Đà Lạt tử thủ). Không hiểu họ sẽ xoay xở ra sao khi đạn pháo đinh tai nhức óc, dồn dập rót về trên đầu? Thỉnh thoảng súng đạn vun vút rền vang nơi xa xa, tạo thành đường dài sáng loáng tóe lửa, vút qua vút lại trên bầu trời.
 
Con đường ngày xưa rộng thênh thang, nay chật như nêm, đoàn xe tôi và bạn gồm bốn chiếc nối đít nhau chạy qua khỏi Krông Pha, tôi không thấy xe ai đi ngược lên hướng núi, (nơi xe tôi đi xuống). Dòng xe đen nghịt nối đuôi nhau đi một chiều xuôi về miền biển… Tôi định tâm dòm quanh thấy hàng hàng lớp lớp người lũ lượt kéo nhau tấp nập vội vã đông hơn kiến gánh gồng vai mang lưng cõng tất tả lê lết đi bộ trên con lộ gần Phan Rang, bàn chân họ cột quần áo để đi trên đường nhựa nóng muốn rộp da. Họ dáo dác nhìn ngược ngó xuôi, lo lắng bước thấp bước cao, ai nấy có nét mặt bâng khuâng nỗi đau xót lạ thường. Tim tôi chùng xuống ngàn đắng cay ngậm ngùi lo âu không thể tả.
 
Trên đầu dốc tỉnh Ninh Thuận súng đạn luôn ì oành nổ ầm ầm đùng đùng, oằng oằng, pằng pằng... chẳng lúc nào ngớt. Xe hơi lớn, xe hơi nhỏ, xe Jeep, xe GMC, xe Honda, xe Lam, xe ngựa, xe bò, xe gắn máy, xe đạp, xe ba gác, xích lô... hầu hết mọi người có phương tiện di chuyển với bầy trâu, bò, heo, chó, ngựa, gà vịt, chen chúc người và người… tất tả xô đẩy nhau chạy bộ trên đường chật như nêm... hỗn độn nối đuôi nhau đi ứ nghẽn.
 
Mãi đến buổi hoàng hôn khi qua khỏi Ba Ngòi nóng bức xé da, đoàn xe di tản chậm hẳn lại, dường như không còn sức sống, cạn kiệt nguồn sống rồi chăng, những xe khác không còn xăng xe ù lì nằm ụ từng đám rải rác trên đường từ Phan Rang tới Ba Ngòi. Quốc lộ đông xe và người càng bị kẹt cứng, xe chẳng thèm nổ máy nữa rồi! Bạn và tôi ai nấy đều thật sự lo sợ và đau khổ, nước mắt thầm lặng tuôn trào.
 
***
 
Mẹ con tôi ôm nhau ngồi lặng lẽ trên xe, cúi mặt thút thít khóc, lòng tôi rối bời ngổn ngang trăm mối, lo sợ tột cùng. Tôi lo con nhỏ mẹ già di tản thì ăn ở đâu, ngủ ở đâu? Nhưng ba bên bốn bề ai cũng ùn ùn lũ lượt kéo nhau đi đông kinh khủng. Nếu gia đình tôi ở lại, có lẽ càng cô độc sợ hãi khi bóng đêm bao trùm vạn vật, súng đạn ùa về nổ chát chúa đinh tai nhức óc, làm sao đây!? Lương quân nhân, công chức như tiền lính tính liền, rồi sẽ ra sao khi ôm nhau chạy về nơi vô định?
 
Mấy lúc trước tôi đã cất giấu được một số tiền kha khá (đề phòng khi hữu sự bất chợt, thì có mà chi dùng). Nào ngờ, Luật thấy trong nhà có tiền, nghe bạn than thở, động lòng trắc ẩn là anh “réo rắt, xeo nạy” cho bằng được. Thấy chồng ỉ ôi thở ngắn than dài “dằn vặt đay nghiến” tôi. Dù quyết dú đút tiền cất đi, nhưng rồi tôi vẫn “lạc lòng nhẹ dạ” không nỡ từ chối lời Luật yêu cầu. Vả lại, tôi không phải là loại đàn bà mê tiền hám lợi, quên tình nhân ái, mà bo bo ôm rịt giữ kỹ tiền, tôi không thấy vàng bạc là mắt sáng như đèn pha đâu. Tôi “dại lòng” trút hết hầu bao, đưa Luật tiền đem cho bạn mượn cả chục lần. Thật ra tôi biết hoàn cảnh tùy gia đình bạn đều khó khăn rất tội nghiệp. Họ có tự trọng, nhưng họ quá khốn đốn mới muối mặt nhờ ta giúp đỡ. Bây giờ bất ngờ ra đi, tôi chẳng còn dư bao nhiêu tiền, nếu mẹ con tôi không lo chắt bóp ăn rau ăn cháo, chắc là chết đói nơi xứ lạ quê người thôi. Nghĩ tới đó... là tôi cảm thấy quá sợ hãi!
 
Gió lồng lộng thổi những hàng cây lao xao cúi rạp mình gần sát đất, khi hỏa châu bùng nở đỏ bầu trời, hòa cùng khói thuốc súng và từng đám mây trắng bay như đàn cừu hốt hoảng chạy trên đồi cỏ khô. Tiếng đạn bay vút lên không trung, tạo thành màn nhện đỏ au đan chéo qua chéo lại, đường cát tuyến tiếp tuyến trên không gian mịt mù. Đạn nổ giòn hòa cùng tiếng lao xao của rừng xoài, côn trùng đồng loạt tấu khúc dạ trường bất tận. Đêm cuốn đi bởi giòng cuồng lưu cuồn cuộn xô đẩy nhau, chảy theo làn sóng người tìm cách thoát thân khỏi tai trời ách nước. Trời sập tối thì xe đến gần Vịnh Cam Ranh, nơi có chỗ neo tàu sâu, có sân bay chắc chắn và an toàn, có câu lạc bộ, có nhà máy làm nước đá, có hệ thống ra đa tối tân nhứt bây giờ. Vịnh Cam Ranh là một lợi thế chiến lược tốt của vùng Đông Nam Á. Từng là nơi tiếp liệu xăng dầu cho hạm đội trong chiến tranh Nhật - Nga từ 1904 > 1905. Ngày xưa là vậy, nhưng hôm nay im lìm câm nín.
 
Đoàn chúng tôi gồm các gia đình: Trần Ngọc mười chín người. Tôi sáu người. Phùng ba người. Bàn mười người. Kim mười hai người. Sau buổi ăn tối, Kim từ giã bạn đi Phan Thiết, vì có thân nhân ở đó. Nhà anh Trí ở Cam Ranh có mười tám người, (không kể những người lạ xin tá túc qua đêm) nay có thêm đoàn tôi, vị chi nhà Trí có 78 người! Cả nhà Trí chạy ra mừng rỡ tíu tít rôm rả chào đón.
 
Chúng tôi hùn tiền đưa chị Trí, nhờ chị đi chợ nấu ăn giúp có lẽ vài bữa. Ban đầu chị Trí nói qua loa, không nhận. Nhưng sau Trí thấy chị Bàn nhét tiền vô túi vợ, chồng hất hàm nhìn vợ, vợ Trí mừng rỡ xách giỏ đi chợ. Phút chốc nồi cơm trắng to tướng, nồi canh chua cá chim, cá thu kho và rau sống, rau muống luộc đã dọn lên đầy nhóc. Người mới tới dùng bữa no nê ngon lành. Nhưng tôi và Phùng có con dại, mệt quá chỉ ăn qua loa nửa chén cơm, rồi đi tắm rửa, giặt giũ áo quần. Phùng và tôi leo lên giường rù rì nói chuyện tới khuya. Phùng bảo đảm với tôi là chỉ cần "chúng ta" an toàn đi tới Nha Trang, thì mẹ con tôi sẽ ở nhờ tại nhà bà cô của Phùng. Nghĩa là hai gia đình tôi và Phùng sẽ tách riêng những gia đình: Ngọc. Quý. Cúc. Bàn.
 
Ở Đà Lạt là quê hương tôi, dù gì tôi cũng dễ dàng xoay trở. Nếu về Nha Trang thì coi như tôi bơ vơ, lạc lõng. Tôi chỉ quen thân duy nhất cô Oanh trước kia dạy học ở Đà Lạt, hai năm nay Oanh đã đổi về Nha Trang. Chẳng biết Oanh có còn ở chỗ cũ không?! Còn Phùng về Nha Trang thì bà con hai họ nội ngoại có nhiều. Phùng hy vọng có thể lưu lại nhà thân nhân một thời gian, và tìm cách trở về Sài Gòn. Lúc nầy tôi thật mừng khi có Phùng cùng đi.
 
Bốn giờ sáng hôm sau, chị Trí và mấy bà trong nhóm lo nấu mấy nồi cơm, canh cá tươi to như tối hôm qua. Tôm, cá, mực ở miền nầy quá rẻ so với ở Đà Lạt. Chúng tôi ăn uống no nê xong, đoàn xe tôi từ giã anh chị Trí đi Nha Trang. Tới trạm xăng vì xe hơi đã cạn, tôi tìm hầu hết mấy trạm xăng không nơi nào mở cửa. Các chủ trạm xăng đều nói:
 
- Từ đây về Nha Trang đều hết xăng, đóng cửa một tuần rồi.
 
Trời ơi! Lẽ ra tôi còn bình xăng phụ dự trữ mà Luật đã bỏ sau cốp, nhưng tôi ỷ y dọc đường có bán xăng. Nên tôi đã chia sạch xăng cho hai chiếc: xe be, xe của Kim. Tôi không hề dự đoán có chuyện bất trắc nầy. Chết rồi. Không ai chịu bỏ xe của mình lại nửa đường, dù xe của họ cũ, coi thổ tả. Vậy là tôi đành ngậm ngùi rơi lệ "bỏ rơi" chiếc xe hơi Peugeot 404 mới của mình, nếu chịu khó ngồi chật chật một xí, thì xe tôi cũng chứa vài chục người. Đúng như Luật đã nói:
 
- Bỏ tất cả, lo sáu mạng người. Còn người còn của mà em!
 
Đàn bà trẻ con leo lên xe lam của Quý bị chật cứng, mẹ của Luật và đàn ông thì leo lên xe be, xe be nầy chở cây gỗ, nay chở hơn bốn chục người lố nhố chen chúc ngồi trên xe be trần trụi không có có mui, không có bờ vách. Họ phải dùng mấy sợi dây dừa cột chặt người nầy vô người kia, rồi cột vô một cây gỗ cẩm lai và ngồi trên đống đồ đạc. Xe be và xe lam chạy chậm rì cà rị cà mò. Tôi lo sợ người ngồi trên xe be chật cứng có thể bị lọt xuống đất! Xe be không có mui che mặt trời nên càng nóng rát. Dưới đường nhiều người lết bộ tay bồng tay ẵm con nhỏ khóc la thảm thiết, mặt mày trẻ lem luốc, đỏ ửng như con tôm luộc, mũi dãi trẻ lòng thòng. Xe hơi không thể chạy mau trên đường dài ngoẵng có đủ mọi tầng lớp… đông hàng vạn người gánh gồng đi bộ, và đủ thứ loại xe lớn nhỏ. Thỉnh thoảng xe bò lọc cọc chở đầy người phủ tấm bạt bay phần phật.
 
Tới gần ngả ba thì có một chiếc xe đò bẹp dúm, bốn bánh xe chổng ngược lên trời, máu me trong ngoài xe lênh láng, trên lề đường có mấy xác chết nằm ngay đơ, người ngồi gần xe ấy đang la khóc. Mẹ con tôi sợ hãi bưng mặt lơ đi chỗ khác, không dám dòm mà tột cùng lo sợ run rẩy hoảng loạn. Tim tôi nghẽn nghẹt ứ cơn đau kỳ lạ, thân thể muốn bay bổng lên chín tầng mây. Xe lam Quý bị hư, do chất đầy người và quá nóng máy. Xe Lam nhích chạy đường trường không có đèn, cho nên xe be do Phú lái phải đi sát phía sau xe Lam, để dọi đường cho xe Quý mò mò chạy, thiệt quá nguy hiểm.
 
Đèn pha của xe GMC ngược chiều nào đó dọi sáng trưng, suýt tí nữa thì Lambretta của Quý chồm tới rất sát mà nằm gọn dưới lòng xe tải kia! Tài xế xe GMC nghiến răng gò lưng đạp thắng kít kít, mọi người trên ba chiếc xe đông nghẹt đều dồn đống chúi nhũi về phía trước, không hiểu sao xe be không mui, không bờ phên vách chấn vậy mà không ai bị lọt xuống đường. Thiệt cảm ơn Chúa. Mấy bánh xe rít ken két dưới mặt nhựa, tỏa khói bay khét lẹt.
 
Tôi khó có thể đoán tuổi đời anh lính dãi dầu sương chiều nắng gió ấy đã trải qua bao xuân xanh, khiến da mặt anh sạm đi lúc hiểm nguy? Bộ quân phục mặc trên người anh, hay do bụi cát rít dưới những bánh xe đã bạc phếch phong trần? Chúng tôi chỉ biết kêu Trời cứu mạng. Khi đèn xe rọi tới trước, tôi thấy những đứa trẻ trạc bằng tuổi con tôi, nghe tiếng bánh xe lết dài trên đường nhựa, chúng hốt hoảng quýnh quáng vọt lẹ lên lề. Thật hú hồn hú vía, nếu anh tài xế xe GMC không tháo vát, lanh lẹ, không có kinh nghiệm, ắt hẳn là tai nạn rùng rợn sẽ xảy ra ở bốn chiếc xe chụm lai, thì không thể lường!
 
Lúc nầy lòng tôi nổi lên sự ấm ức quá tức giận, vì tôi đã "nhân ái" và "anh hùng rơm" đành vất bỏ lại chiếc xe 404 ở Cam Ranh mà leo lên xe Lam cũ thổ tả nầy! Biết làm sao được khi mình có lòng nhân không hề tính toán thiệt hơn, đã hậu hỉ hân hoan thành tâm trút hết xăng cho xe bạn!
 
* * *
 
Từ Cam Ranh khởi hành lúc bảy giờ sáng, mãi tới mười một giờ đêm đoàn xe dài ì ạch khoảng trăm cây số mới về Nha Trang. Các ngã ba ngã tư mọi người cố chen lấn tìm tí đất sống, xe và người sát nhập trườn lết tới vùng đất hứa hẹn an toàn. Họ cố chen từng bước, từng bước, ùn ùn tìm về vùng tạm lánh cư có lẽ bình an hơn: Nha Trang. Chúng tôi ghi cho nhau địa chỉ bà con ở nhiều nơi, ngộ lỡ có biến loạn hay cần liên lạc, thì biết mà tìm bạn. Chia ra nhiều hướng: Phan Bàn ở bà con tại đường Nguyễn Tri Phương. Trần Ngọc ở nhà bà con. Vợ chồng Phùng, bà mẹ Luật, tôi, và bốn con thì về nhà bà cô Ty của Phùng.
 
Có thêm chúng tôi nhà lầu của bà hơi chật càng nghẹt thở hơn, cổng sắt cao lút đầu, màn che trướng rủ kín mít. Họ nói chuyện với nhau thì thầm to nhỏ, mắt la mày lém dáo dác nhìn trước ngó sau len lén rù rì, họ tỏ lộ vẻ lạnh nhạt khó chịu ra mặt khi có sự hiện diện của chúng tôi, họ bất an sợ sệt điều gì lạ lắm. Họ sợ mẹ con tôi biết họ quá giàu, họ “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ đốt nhà” tôi nảy sinh ra trộm cướp chăng?
 
Sống tại nhà bà con của Phùng, tôi sợ các con ồn ào làm vướng bận, phiền gia đình bà cô, nên mỗi ngày chúng tôi phải đi qua bên trường Nam Tiểu Học trên đường Hàn Thuyên. Mẹ con bà cháu ngồi ngoài gốc cây phượng mua quà bánh ăn qua loa. Chiều chiều mò ra biển ngồi dưới hàng dừa hứng gió mát, cho các con nô đùa ở biển. Chờ sau giờ họ ăn cơm, tối mịt chúng tôi mới dám mò về xin phép chủ nhà cho tắm rửa, đi nằm ngủ nhờ dưới gạch bóng loáng trải mền bông xuống nền nhà, mẹ con bà cháu chui vô nằm chen chúc trong một cái mùng rộng. Tóm lại, chúng tôi chỉ xin ngả lưng ngủ nhờ. Năm giờ sáng, tôi lo đánh thức cả nhà dậy, lại thất thểu lang thang đi ra ngoài lộ sớm. Hai hàng nước mắt tôi thầm lặng vẫn tuôn trào. Mặc dù từ Đà Lạt về Cam Ranh, bạn biết tôi không có thân nhân ở đây, Phùng đã cam đoan chắc chắn: "mẹ con chúng tôi khỏi lo vấn đề ăn & ở Nha Trang trong thời gian dài".
 
Tôi ngây thơ đã tin bạn. Nay Phùng cảm thấy khó xử, vì nhà nầy không phải của Phùng. Tôi thông cảm dẫu sao Phùng cũng áy náy và hổ thẹn với tôi. Qua ngày thứ bốn, tôi thấy mặt mày ai nấy đều nặng như chì, (khi Phùng bồng đứa con lên máy bay về Sài Gòn) Thái độ ngược đãi ấy được khẳng định mọi điều dứt khoát: "Sau khi gia đình Phùng an toàn tại Nha Trang, có đủ điều kiện để họ tìm đường trở về Sài Gòn, thì họ muốn bỏ rơi chúng tôi". Như thế thì đã rõ rồi, dễ hiểu quá. Phùng nên đi trước, mai mốt chồng Phùng sẽ về sau, là lưỡng tiện đôi đàng, ông sẽ ú ớ ù lì ngơ ngáo là huề cả làng. Họ giỏi tổ chức khỏi mất công “hứa lèo” với tôi. Bỏ mặc tôi xử trí ra sao với bà cô. Thì ra, tôi thật ngây thơ, việc vợ chồng Phùng hứa suông chẳng khác nào đem con đi bỏ chợ, đã giao trứng cho ác...
 
Thà rằng tôi ở lại Cam Ranh, dù sao gia đình anh Trí cũng là chỗ thân tình. Vả lại họ còn nợ tôi một món tiền kha khá... (do Luật “hứng nợ” bắt tôi đi vay tiền đưa cho Trí). Rồi sau nầy cộng thêm nợ mới: Trí nợ bạn và tôi số tiền khổng lồ: Do công ty làm ăn chung đã trúng thầu, thuê một trăm nhân công tháo gỡ xuống năm trăm căn nhà tiền chế của Mỹ & thuê bao nhân công làm mỗi ngày, thuê xe chở vài trăm chuyến xe vật liệu, về bán trả góp cho dân ấp Vĩnh Linh, họ cần làm nhà ở Vĩnh Linh mới thành lập, chính phủ chiêu mộ dân tứ xứ về lập nghiệp... Tiền bán những nhà tiền chế, các bạn Đà Lạt ở xa đây, phần nữa họ tin Trí, cho Trí đứng ra bán, thu tiền. Thì Trí thâu tóm vung vít tiêu xài hoang phí. Lại lòi ra Trí đèo bồng vợ nọ con kia, (mà vợ hai không ai khác là em ruột của vợ mình). Trí lem nhem không chuyển trả tiền cho tôi, và bất cứ ai trong nhóm bạn một đồng nào.
 
Tôi muốn nấn ná ở lại Cam Ranh, cốt ý mong Trí trả bớt món tiền riêng của tôi, chớ tôi chưa tính chuyện Trí phải trả tiền nợ chung ở công ty. Mặc dù tôi biết lúc nầy Trí vẫn còn khá nhiều tiền, nhưng do lòng tham lam, vô trách nhiệm, không hề biết tự trọng, không biết xấu hổ, Trí "mặt trơ trán bóng" trâng tráo... ù lì, không chịu rỉ ra đồng nào, Trí phải biết chính lúc nầy ai ai cũng cần có tiền. Bạn của Luật ác vậy đó!
 
Sau nữa muốn ở Cam Ranh là tôi giữ liên lạc dễ dàng với Luật. Dù sao đường đi từ Đà Lạt về Cam Ranh, cũng gần hơn đi Nha Trang, nơi nầy chưa bị phong tỏa. Ôi! Thế nhưng... người tính không bằng Trời tính!
 
 
Tình Hoài Hương
 

Tìm các bài VĂN khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com