
Người Việt ở hải ngoại về Việt Nam thăm thân nhân, bạn bè, thường phải “nổ” để tỏ ra giàu sang, phú quí mới được chào hỏi vui vẻ. Nếu có ai hỏi làm nghề gì thì cứ nói mình là kỹ sư, giám đốc, manager, chủ business. Ngược lại, ăn mặc lùi xùi, nói thật là mình ở hải ngoại, làm những nghề chân tay như cắt cỏ, công nhân vệ sinh các cao ốc… thì sẽ bị khinh bỉ, xa lánh.
Đây là chuyện kể về một ông từ Mỹ về Việt Nam tìm thân nhân và người yêu ngày xưa. Bề ngoài đã luộm thuộm lại thêm bịnh tâm thần, thì chẳng biết người xưa có nhận ra không chứ chưa nói đến tình cảm trước kia và có chịu giúp ông ta tìm người thân không? Một vở kịch đời, có thể đã từng xảy ra với nhiều người.
Miền Trung Việt Nam là một dải đất hẹp, một bên là núi, một bên là biển, có nơi, núi lấn sát biển đến độ đường quốc lộ phải chạy dưới chân núi, mấp mé bờ biển, còn xe lửa phải chui vô hầm để qua bên kia núi. Có một thị trấn nằm sát bờ biển như thế mà núi chỉ cách thị trấn một con sông nhỏ. Bên kia sông là đường xe lửa, bên nầy là quốc lộ cũng là đường phố chính của thị trấn. Xưa kia, thời Pháp thuộc, thị trấn là tỉnh lỵ, về sau, tỉnh lỵ dời đi, cách đó vài cây số, mở mang rộng lớn, nhà cửa, phố xá tấp nập và thị trấn bị bỏ quên. Muốn xây nhà mới, muốn buôn bán làm ăn, người ta lên tỉnh lỵ, vì thế, những dãy phố cũ kỹ, với mái ngói rêu phong, thấp như những ngôi miếu cổ vẫn còn giữ nguyên như cách đây cả mấy trăm năm. Nhưng đường xe lửa, (bên kia sông) lại thêm nhiều chuyến tàu xuôi ngược, ồn ào náo nhiệt. Ban đêm trước khi ngang qua thị trấn, đoàn tàu thường kéo một hồi còi từ rất xa, tiếng còi vọng vào núi rền rỉ chưa dứt thì cái đầu máy đen thùi với ngọn đèn như con mắt sáng chói ầm ầm chạy qua. Đoàn tàu giống con quái vật, rít lên ken két, như điên cuồng đuổi theo một con mồi vô hình rồi chui tọt vào đường hầm trong núi đằng xa kia, mất dạng. Ngoài đường phố chính của thị trấn, còn có năm, bảy đường lát đá chạy song song và những đường nhỏ cắt ngang dẫn ra bờ biển, ở đó có những con thuyền nằm phơi mình trên cát trắng chờ những chuyến ra khơi. Những con đường dù nhỏ như đường hẻm cũng được mang tên một danh nhân lịch sử.
Sau năm 1975, Cộng Sản chiếm miền Nam, đổi tên hầu hết mọi con đường, thay bằng tên những đảng viên Cộng Sản đã chết, mà chính cán bộ, đảng viên cũng không biết là ai? Bởi thế mới xảy ra chuyện tìm tên đường cũ của hai ông xa xứ mới về.
Hai ông từ Mỹ về Việt Nam, ra miền Trung, vào thị trấn đó, đi tìm người quen. Một ông đi trước, tay cầm cái phong bì dáo dác tìm số nhà, ông theo sau, râu ria, tóc tai lởm chởm, ngơ ngáo như người mất hồn. Đã hơn hai mươi năm rồi, người già hầu như không ra đường, người trẻ thì không biết trước đây có những con đường mang tên (cũ) xa lạ. Rồi cũng có người nhớ ra, chỉ cho họ. Ông đi trước tìm được số nhà, dòm vô, nhưng nhà thấp lại về buổi chiều trời u ám nên chẳng thấy gì. Người đàn bà, tuổi trên năm mươi, ngồi trong nhà nhìn ra, thấy vậy, mới bước ra cửa hỏi.
- Hình như quí ông tìm ai, phải không ạ?
Ông ta chìa cái phong bì.
- Tôi tìm người có cái địa chỉ nầy.
Cô ta cầm phong bì, nheo mắt đọc và nói.
- Đúng là địa chỉ cũ của nhà nầy rồi.
- Tôi tìm cô Lan, có tên trên phong bì đó!
Cô ta đưa phong bì gần mắt.
- Tên mờ quá! Nguyễn Thị Lan. Đó là tên tôi. Quí ông tìm tôi có việc gì không ạ?
Người đàn ông cười, chỉ ông bạn.
- Ông nầy đi tìm cô Lan. Có phải chị là cô Lan không?
Cô ta cũng cười.
- Cô Lan là tôi, nhưng không còn cô nữa mà là bà già!
Rồi cô ta nhìn người đứng sau lưng ông bạn. Cô nhìn chăm chú, mắt mở lớn, vừa ngỡ ngàng vừa như vui mừng. Cô lại cười, giọng thân mật.
- Anh tìm Lan? Thì có Lan đây. Mời quí anh vô nhà.
Người được hỏi không trả lời, theo bạn bước lên thềm.
- Mời hai anh ngồi.
Cả hai ngồi xuống tràng kỷ, một loại ghế dài xưa, lên nước đen bóng. Cô ta mở đèn. Ánh sáng chan hòa, soi rõ những câu đối chữ nho nhụ vàng, những cột kèo chạm trổ cầu kỳ, bàn thờ cẩn xà cừ lóng lánh, trên tường treo mấy bức tranh thủy mạc, vẽ cảnh trời nước mơ hồ. Mọi vật đều xưa cũ trong ngôi
nhà âm u, ẩm thấp. Cô ta nói vọng vào nhà trong.
nhà âm u, ẩm thấp. Cô ta nói vọng vào nhà trong.
- Chị Ba cho em miếng nước pha trà.
Có tiếng trả lời.
- Chị biết rồi, đang nấu đây.
Người đàn ông nói.
- Anh bạn tôi đây, ở tận bên Mỹ mà cứ lang thang khắp tiểu bang Cali. bên đó, tìm cô Lan bên nầy.
Cô ta ngạc nhiên.
- Sao kỳ vậy? Cô Lan ở Việt Nam mà tìm ở Mỹ, làm sao gặp được?
Ông kia, cứ ngồi ngơ ngác nhìn khắp nhà như tìm kiếm vật gì. Người đàn ông đỡ lời.
- Nguyên do thì dài lắm, nhưng để tôi tóm tắt cho chị nghe.
Vừa lúc, một người đàn bà bưng khay trà từ sau nhà đi ra. Bà ta gật đầu chào hai ông khách, để khay trà lên bàn, rót nước vào tách rồi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh.
Cô Lan giới thiệu.
- Đây là chị tôi. Nhà có hai chị em, các cháu, con chị tôi, buôn bán dưới chợ, gần tối mới về. Mời hai anh dùng trà. Xin anh kể tiếp.
- Vâng. Trước năm 1975, hai đứa tôi là lính, chung một đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Những ngày cuối cùng của đất nước, ở miền Tây, chúng tôi vẫn còn chiến đấu. Lúc đó, đơn vị chúng tôi phải chận đánh địch từ xa để bảo vệ một thành phố. Chúng tôi cố cầm chân địch để chờ cứu viện. Nhưng pháo yểm trợ, không quân và các đơn vị bạn cũng không thấy! Chúng tôi lùi dần, cố gắng chiến đấu trong tuyệt vọng. Đến khi hết đạn, chúng tôi đành bỏ chạy theo dân. Ông bạn tôi đây, bị một mảnh đạn pháo vào đầu, ngã gục. Dù nghĩ rằng bạn đã chết nhưng tôi cũng cõng bạn, vượt vòng vây. Chúng tôi xuống thuyền, chạy ra biển. Thuyền ra khơi thì gặp hạm đội Mỹ, bạn tôi được cứu sống, nhưng đầu óc bị tổn thương, khi nhớ khi quên. Qua Mỹ, anh ta sống nhờ trợ cấp xã hội chứ chẳng làm được việc gì. Chúng tôi phân công nhau đến nhà an dưỡng thăm viếng anh ta, đưa đi ăn uống, đến nhà bạn bè chuyện trò. Anh ta được bác sĩ khám bịnh, cho thuốc. Chỉ ít lâu sau là trí nhớ phục hồi. Thấy bịnh thuyên giảm nhiều, chúng tôi rủ nhau đến chúc mừng nhưng đến nơi lại thấy anh ta ngồi u sầu.
Hỏi. Sao buồn thế? Anh ta bảo nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa, nhớ bạn bè, nhớ người yêu. Chúng tôi, ai cũng nhớ nước, nhớ bạn, nhưng sao không khóc? Bác sĩ bảo, vì vết thương trên đầu nên thần kinh chưa ổn định và nhất là tâm lý dễ xúc động, cứ tiếp tục uống thuốc sẽtrở lại bình thường. Vậy mà anh ta không chịu uống thuốc tiếp, bảo rằng thà quên đi cho bớt đau khổ. Không hiểu sao, từ hai năm nay, anh ta lôi trong túi áo nhà binh, mà anh ta cất kỹ cả chục năm nay, cái phong bì cũ nầy, ra các chợ Việt Nam ở quận Cam, tiểu bang California, gặp ai cũng chìa cái phong bì và hỏi. “Có biết nhà cô nầy ở đâu không? Chỉ giùm tôi”. Ai cũng cười và nói “Phải về Việt Nam mới tìm ra cô ta. Ở Mỹ làm gì có!” Cứ lang thang ngoài đường, ai cho gì ăn nấy, bạ đâu ngủ đó, không chịu về nhà an dưỡng. Chúng tôi nghĩ, có lẽ cô Lan, tên người trên phong bì đã chết, về bắt hồn anh ta, nên góp tiền, mua vé máy bay cho anh ta về Việt Namtìm một ngôi chùa nào đó xin lập đàn giải oan cho linh hồn người chết siêu thoát. Tôi có nhiệm vụ hộ tống anh ta đi tìm cái địa chỉ nầy, Không ngờ, cô Lan vẫn còn đây, nhưng anh ta lại không nhớ ra. Chúng tôi còn ở đây mấy hôm nữa. Nếu hai chị vui lòng, xin cho bạn tôi đến
thăm, hi vọng hai chị nhắc lại những chuyện cũ để gợi lại ký ức mà nhận ra người xưa.
thăm, hi vọng hai chị nhắc lại những chuyện cũ để gợi lại ký ức mà nhận ra người xưa.
Hai người đàn bà nhìn đăm đăm người mất trí, râu ria, tóc tai như người rừng. Cô Lan hỏi.
- Anh là anh Tần phải không? Anh có nhớ ra em không? Em là Lan đây.
Người mất trí nhìn cô ta mà không nói gì. Người chị nói.
- Anh đi tìm Lan, Lan ngồi trước mặt mà không biết là ai?
Cô Lan đứng lên.
- Để tôi lấy mấy tấm hình cũ cho anh ta xem, chắc sẽ nhớ ra.
Cô vào nhà trong, lên gác, lát sau xuống, tay cầm một xấp thư và cái thẻ học sinh. Cô đưa anh ta cái thẻ học sinh.
- Anh biết ai đây không? Nhìn kỹ xem!
Người mất trí mân mê cái thẻ học sinh, nhìn một lúc, vẻ suy nghĩ nhưng cũng không nói gì. Cô Lan nói với người bịnh.
- Anh cứ giữ cái thẻ học sinh của em. Em tặng anh. Còn đây là mấy lá thư anh gửi cho em, anh đọc sẽ nhớ ra cô Lan ngày xưa của anh. Anh gửi cho em nhiều thư lắm. Để em đọc lá thư nầy. 'Trong túi áo anh bao giờ cũng có một tờ giấy trắng, trong một phong bì ghi địa chỉ của em. Nếu anh ngã gục ngoài chiến trường thì đồng đội anh sẽ viết mấy giòng báo tử, ghi ngày giờ, gửi cho em. Chỉ cần mấy giọt nước mắt tiếc thương của em là linh hồn anh sẽ không còn lưu luyến gì ở cõi đời nầy nữa, sẽ siêu thoát'... Anh có biết, lá thư nầy đã khiến em khóc mãi vì lo sợ cho anh. Nó như lời trăng trối vừa như điềm gở khiến em nghĩ rằng, sau 1975, anh đã chết thật rồi.
Người bạn cười để không khí bớt ảm đạm.
- Nhờ sáng kiến đó mới có cái phong bì anh ta để trong áo trận có ghi địa chỉ cô Lan để mà đi tìm. Bây giờ như thế nầy. Nhờ hai chị, với khung cảnh cũ, tên những người thân yêu với những kỷ niệm xưa, sẽ kích thích, phục hồi phần nào trí nhớ của anh ta, nhất là thử hỏi anh ta đã nằm mơ thấy gì, có ai xui khiến anh ta đi tìm cô Lan suốt hai năm nay?
Người chị nói.
- Trước đây, thời còn đi học, anh Tần thường đến đây vì là bạn cùng lớp với anh Hai chúng tôi. Anh Hai chúng tôi là Sĩ Quan Cộng Hòa, đã chết trong trại tù cải tạo.
Hai người đàn bà thở dài khi nhớ đến người anh thân yêu. Một lúc sau, người chị nói.
- Nhà anh Tần ở cuối đường nầy. Năm Bảy Lăm, cách mạng vô, tịch thu nhà cửa, tài sản gia đình anh Tần, rồi cả nhà bị đẩy lên kinh tế mới, vùng rừng núi trên cao nguyên, sau đó, ba mẹ anh Tần bịnh chết, mấy đứa em sống lây lất, quá cực khổ. Thỉnh thoảng, họ có ghé về đây hỏi tin tức anh Tần. Nếu được tin anh Tần còn sống, họ sẽ mừng lắm. Khi nào họ ghé vào đây, chúng tôi sẽ báo tin vui nầy.
- Hèn chi, khi đi ngang qua ngôi nhà cuối đường nầy, anh ta đứng lại nhìn mãi. Chị có địa chỉ của gia đình anh Tần trên kinh tế mới không? Cho chúng tôi xin để liên lạc, thăm viếng. Mục đích chúng tôi về đây là để tìm gia đình anh ta.
- Người nhà của anh Tần có cho địa chỉ trên kinh tế mới, để tôi ghi cho mấy anh. Nhà cũ của gia đình anh Tần thì cán bộ đang ở.
Cô Lan viết địa chỉ vào một mảnh giấy, trao cho người đàn ông.
- Nhớ ra nhà của mình, hi vọng anh sẽ nhớ lại chuyện cũ.
Người đàn ông đứng lên.
- Chúng tôi xin phép cáo từ.
Người mất trí bước ra mà còn quay đầu nhìn mọi vật trong nhà. Cô Lan cầm tay người bịnh.
- Anh nhớ đến thăm em nghe! Anh cứ giữ cái thẻ học sinh của em, tối nào cũng ngắm thì sẽ nhớ ra em.
Một buổi tối, cô Lan chờ người bịnh đến thăm như thường lệ mà không thấy đến. Sợ anh ta đi lạc nên cô đi tìm khắp thị trấn. Khi ra bờ sông thì thấy anh ta ngồi trên ghế đá yên lặng nhìn bóng đêm trước mặt. Màn đêm như chiếc chăn ấm phủ lên dòng sông. Tiếng sóng vỗ vào bờ, êm, nhẹ và đều đều như hơi thở của một sinh vật đang chìm vào giấc ngủ bình yên. Bên kia sông, thấp thoáng ánh đèn dầu. Dòng sông cũ với những đợt sóng tí tách như đang vỗ vào ký ức mịt mờ của người bịnh những kỷ niệm xưa. Cô ngồi xuống, bên cạnh người bịnh. Anh ta vẫn bất động nhưng lầm bầm.
- Đừng phá giấc ngủ của dòng sông!
Cô thì thầm.
- Anh đã nhớ ra dòng sông. Anh có nhớ ra em không? Anh còn nhớ, thời chúng mình còn là học trò, thường cùng bạn bè tụ tập ở bờ sông nầy vui đùa, chuyện trò? Và cũng tại nơi nầy, một buổi tối, anh cầm tay em, ngỏ lời yêu em. Em chỉ biết khóc. Ngày anh nhập ngũ, vào quân trường, em ra ga tiễn anh, em cũng khóc mà anh thì cười.
Người bịnh nắm nhẹ bàn tay cô, thì thầm.
- Ngày xưa anh còn khỏe mạnh, tương lai vững vàng, nay là người tàn phế, vô dụng. Có gì vui đâu mà em hi vọng?
Cô Lan mừng rỡ, nghĩ rằng, khi nhắc lại chuyện cũ đã giúp trí nhớ anh ta phục hồi. Cô ôm vai anh ta.
- Anh và em đã lớn tuổi, chẳng có gì để hy vọng cho tương lai. Rồi đây, anh lại xa em. Giây phút ngắn ngủi nầy, được gần bên anh đối với em quí giá và đầy đủ lắm rồi. Bây giờ mình về kẻo gió lạnh. Về uống chén trà nóng với em rồi bạn anh sẽ đến đón. Đứng lên! Giỏi, em thương!
Đã đến ngày hai người phải lên đường. Cô dặn người bịnh.
- Khi nào đi, nhớ đến từ giã em. Nghe anh!
Một buổi sáng, khoảng sáu giờ, trời còn lờ mờ ánh hồng ở chân trời, hai người đàn ông, với ba lô trên vai như thời còn chinh chiến, đến từ giã cô Lan. Thấy nhà có ánh đèn, họ gõ cửa. Cô Lan mở cửa, mời vào nhà. Trong nhà yên tĩnh, thoang thoảng mùi nhang, trầm. Cô mặc áo dài màu lam rộng thùng thình của người tu Phật tại gia. Họ đặt ba lô xuống ghế. Người đàn ông ái ngại.
- Xin lỗi chị. Chúng tôi đến sớm quá, làm phiền chị.
Cô Lan dịu dàng.
- Không sao đâu anh. Sáng nào tôi cũng dậy sớm tụng kinh, lễ Phật. Vả lại, tôi biết, sáng nay, hai anh sẽ ghé từ giã. Mời hai anh dùng trà cho ấm bụng.
Người đàn ông uống xong tách trà, đứng lên nói.
- Xin phép chị, tôi ra đường đi ngắm thị trấn một lát. Buổi sáng ở đây thật yên tĩnh, hiền hòa. Xin phép chị!
Anh bạn ra cửa, bước xuống đường. Cô biết đó là cách tránh mặt cho cô và người bạn cũ được tự nhiên trong lúc chia tay. Cô Lan ngồi đối diện, ngập ngừng.
- Sáng nay anh lên đường, anh có nghĩ gì về em không? Không phải vì anh bị thương tích mà không nhận ra em mà vì em không còn xuân sắc như ngày xưa! Đã mấy mươi năm. Em già quá rồi!
Cô trìu mến nhìn người bịnh.
- Về Mỹ nhớ uống thuốc và đừng ăn uống thất thường. Đừng đi lang thang bên đó tìm em nữa. Em ước được anh về đây với em. Anh có muốn về sống với em không?
Người bịnh hơi chồm người tới, vẻ chăm chú. Cô nói.
- Mấy đêm nay em suy nghĩ mãi, không biết chuyện gì xảy ra khiến anh đi tìm em? Và em đã hiểu ra rồi. Để em kể anh nghe. Từ khi anh không viết thư cho em nữa thì em không biết anh ra sao, nhất là sau năm Bảy Lăm. Mất nước, quân đội tan rã. Em dọ hỏi khắp nơi mà chẳng được tin tức gì về anh. Tất cả đàn ông đều bị tù cải tạo, ngoài đời cũng chẳng ai dám tiếp xúc, chuyện trò với nhau. Cho đến cách đây hơn hai năm, gặp được một cựu sĩ quan, cũng là tù cải tạo về, em hỏi thăm về anh thì được anh ta kể rằng. Khoảng tháng tư năm 1975, trong một trận đánh, chính mắt anh ta thấy anh ngã gục vì một quả đạn pháo. Em lấy ngày được tin anh mất làm ngày giỗ anh. Em qui y, rước kinh Phật về tụng niệm để cầu xin Đức Phật độ trì cho linh hồn anh được bình an trong vòng tay thương yêu của Ngài. Lần nào tụng kinh xong em cũng van vái, xin đấng Từ Bi đưa vong linh anh về cho em được gặp trong giấc mộng. Em cầu Phật. Em gọi anh. Gọi mãi. Mấy năm nay. Tình yêu của em đã cảm động đến đức Bồ Tát, Ngài đã khiến xui anh đi tìm em. Gặp em, nhưng em đâu còn như ngày xưa nên anh không thể nhận ra! Anh vừa thân yêu lại vừa xa lạ. Bao nhiêu năm, anh đi chinh chiến, rồi biệt mù tăm tích, em vẫn chờ đợi anh. Bây giờ, anh về với em, mà như thế nầy sao?! Hôm kia, đáng ra là ngày giỗ anh, nhưng anh đã về nên em không còn cúng kiếng gì nữa. Em đã mãn nguyện. Em sẽ tiếp tục tụng kinh, cầu xin Phật Tổ gia hộ cho anh sớm bình phục. Em ước được gần anh để săn sóc, an ủi anh. Anh nhớ uống thuốc, ăn uống đầy đủ để em còn hy vọng gặp lại anh. Anh cứ giữ cái thẻ học sinh của em để khi nào nhìn đến hình em, tưởng như em đang ở bên anh, anh sẽ không còn cảm thấy lẻ loi nữa. Em linh cảm đây là lần cuối chúng ta nhìn thấy nhau.
Cô ứa nước mắt, nhìn người bịnh.
- Anh nói gì với em đi anh!
Người bịnh yên lặng đứng lên, bước tới, hai tay đưa ra chờ đợi. Cô Lan ôm lấy, ép ngực mình vào người anh ta, thì thầm.
- Ôm em thật chặt đi anh. Đây là lần đầu trong đời em được người em thương yêu, ôm em. Chừng nầy cũng đủ cho em mãn nguyện rồi.
Người đàn ông hôn lên trán cô rồi bất ngờ thì thầm.
- Cám ơn em. Em tử tế với anh quá! Không thể tin rằng, qua bao nhiêu năm, em vẫn như xưa. Anh về đây tìm gia đình anh và tìm em. Lẽ sống cuối đời của anh là gia đình anh và em.
Cô Lan ngạc nhiên, ngước nhìn.
- Anh bịnh mà sao ăn nói mạch lạc vậy? Có phải anh và bạn anh đánh lừa em không?
- Anh bị bịnh thật, đúng như lời bạn anh kể. Khi nhớ, khi quên, nhưng nay đã khá hơn nhiều. Ở Mỹ, anh không có tin tức gì về gia đình, bạn bè ở Việt Nam. Anh muốn về Việt Nam để tìm người thân, nhưng như em thấy đó, anh thất nghiệp, thân tàn ma dại, lại bịnh hoạn thì trừ gia đình của anh ra, người khác gặp, họ sẽ làm mặt lạ. Bởi vậy, các bạn mới dặn anh là không nói gì cả, mục đích để biết em đối xử với anh ra sao. Không ngờ, em vẫn tốt với anh như ngày nào. Cám ơn em nhiều lắm.
Cô Lan lau nước mắt.
- Anh làm em buồn hết sức nhưng rồi lại vui khi biết anh vẫn còn nhớ đến em, về đây tìm em. Nhưng chuyện anh đi tìm em ở bên Cali. có thực không?
- Lúc đó anh còn bịnh nặng, thực hư lẫn lộn. Cứ tường rằng mình còn trong quân đội, về phép thăm em, nhưng lại không tìm thấy nhà em. Cứ đi lang thang, gặp ai cũng hỏi về em. Bây giờ thì đã tìm thấy rồi. Sáng nay anh phải lên kinh tế mới thăm gia đình.
- Anh chưa vô Sài Gòn sao?
- Chưa đi. Anh còn vài tuần nữa mới lên máy bay. Anh về lần nầy tìm gia đình và coi như vĩnh biệt Việt Nam, vĩnh biệt em.
- Anh còn ở lại Sài Gòn bao lâu?
- Khoảng một tuần.
- Em có người dì ruột ở Sài Gòn. Em định vô Sài Gòn thăm dì. Khi nào lên đường, nhớ cho em đi theo với nghe!
Phạm Thành Châu
Nguồn: https://cothommagazine.com/wp/wp-content/uploads/2022/06/CoThom95-March-2022-ToanTap-COLOR-NEW.pdf