Cao Tư và tôi là anh em cô cậu, hai đứa cùng trạng tuổi và nhà lại gần nhau hồi còn ấp Năm. Hắn có thời là lính tráng chung sống với anh tôi là sếp một cứ điểm nằm dọc bên bờ sông Mang Thít. Vì vậy chúng tôi có rất nhiều chuyện xưa tình cũ hơn những anh em khác. Đến Mỹ du lịch thăm mẹ được vài tuần, Cao Tư nhờ mấy đứa em lái xe đến thăm chúng tôi. Muốn tạo bất ngờ, nên lần đó anh em trớt mấu. Rút sợi dây kinh nghiệm là phải gọi hẹn hò. Hôm nay, anh em chung quanh đây tụ họp chờ đợi dịp tái ngộ. Cựu nông dân kiêm chủ điền ở cù lao Mây, Trà Ôn, bây giờ kêu là cù lao Lục Sĩ Thành, anh chàng Cao Tư có vẻ kết khu vườn nhỏ sau nhà Tám Lớ còn mang nét thôn dã quê mùa, vô ngồi bàn nhậu mà hắn cứ hỏi chuyện trồng rau:
- Dây bầu ngoài sân là loại gì mà trái sai quá. Cuối mùa anh Tám để trái khô cho em vài hột.
- Khỏi đợi lâu, anh còn hạt khô năm rồi, muốn là bỏ túi liền. Mấy năm trước, anh mua hạt giống đó từ tiệm Mỹ. Mùa đầu trồng ra trái roi roi ngắn ngắn đầu đuôi gần bằng nhau, anh đặt tên là bầu dùi đục.
- Dùi đục của thợ mộc thì cỡ như chai bia Heineken nầy, còn trái bầu ngoài giàn bự như cái cột chuồng trâu. Nó không có tên như bầu sao, bầu đĩa, bầu linh dược, bầu thúng, vân vân... Dìa bển ai hỏi, tui nói bầu Tám Lớ à nghen.
- Giỡn hoài người anh em. Mai mốt tao về quê ngoại, có người hỏi muốn ăn cháo bầu Tám Lớ không, thì còn chi là chút duyên đời trai của tui.
- Ha ha, dám như vậy lắm chớ chẳng chơi! Ê, Tám Lớ, có nhớ lần anh từ Tam Bình chèo xuồng qua cù lao Mây rủ rê vượt biên. Anh chỉ biết tui từ chối vì hai đứa tui mới chạy vắt giò thoát thân từ một chuyến của người quen ở Long Phú trước hôm đó chừng tuần lễ. Ngoài ra anh còn biết gì nữa không?
- Nói ra còn chưa biết, không nói thì chuyện hồi năm 1989 tới giờ chưa đủ độ xưa sao em trai.
- Hôm đó vợ em đứng sau lưng anh khoát khoát tay, lắc đầu ra dấu cho em đừng hứa. Anh lo nói chuyện, đâu có để ý.
- Ha ha, vợ em đứng sau lưng anh thì làm sao anh biết thím ra dấu ra hiệu gì. Bữa nay Cao Tư thật thà nói rõ duyên cớ, anh cũng đỡ khổ một mối. Anh bị ám ảnh lỗi lầm những khi bị lạnh nhạt hoặc từ chối đề nghị hảo ý. Hôm nay cảm ơn Cao Tư giải toả vụ từ chối của em, nhưng anh còn ân hận nhiều vụ khác.
- Anh còn ân hận vụ gì, sẵn có anh em ở đây, xả ra hết cho nhẹ lòng.
- Anh không muốn nhắc lại những trường hợp của anh em bà con, vui gì mà nói. Còn bạn bè lối xóm thì có ít nhất hai vụ rưỡi.
- Hai hoặc là 3. Chứ hai rưỡi là sao anh Tám Lớ. Nếu không mích lòng đụng chạm, anh kể ra nghe chơi.
- Anh Tư, anh Bảy và các em muốn nghe không?
- Không ai kể, lấy gì cho ai nghe!
- Những người dính líu đến khúc phim hồi ức nầy đều mạnh giỏi, còn ăn nhậu như ba tây. Vì vậy anh em bàn tiệc hôm nay cho phép Tám Lớ gọi tên của họ bằng chữ đại diện. Vụ thứ nhất là thằng H ở Trà Ôn. H không có bà con gì với tôi, chỉ là có chung mai mối đi tìm đường vượt biên như cháu Lâm mà sinh quen biết. Nó nhỏ hơn tôi chừng 5-7 tuổi nhưng xưng cháu theo vai thằng Lâm nhà mình. H là con nhà khá giả ở vùng nông thôn giàu có thuộc huyện Trà Ôn. Nó tốt nghiệp Trung cấp một ngành kỹ thuật và có việc làm đàng hoàng ở một cơ quan.
- Ngành gì, anh H đó làm ở đâu?
- Biết đại khái vậy thôi, nói rõ ra cũng chẳng ích gì. Năm 1982-83, H và thằng Lâm cháu tụi mình theo một chỗ quen với 2 nhà, hai đứa đi trầy trật mấy lần, H bỏ luôn việc làm. Tôi thấy vậy nóng mũi nhảy vô giúp thằng cháu của mình cũng không khá gì. Mà lắm khi tôi và H sống đói khổ lang thang vĩa hè ở Sài Gòn, có bữa 2 thằng ăn một củ khoai lang rồi kiếm nước phông-tên công cộng. Sau hơn một năm tới lui nhão nhề vùng Tân Quy, Nhà Bè đến các địa danh xa lạ như Phú Mỹ, Phước Hoà, Bà Rịa. Tám Lớ và thằng H bị tụi cáo già thầy tuồng dàn cảnh lột sạch vốn liếng. Năm 1985, 2 thằng trở về Tam Bình tàn tạ như xác ve sầu, tôi chỉ thiếu một điều là xuống giữa rừng mắm Cà Mau để trốn nợ.
H ở nhà tôi không nhớ bao lâu. Tội nghiệp, mỗi ngày nó phụ lặt vặt với vợ tôi nướng bánh bỏ mối các chợ xã để sống qua ngày. Cả nhà tôi không ai rõ lý do H bỗng nhiên biến mất, hoặc là H biết gia đình tôi đã kiệt vốn liếng, không còn cơ hội lật ngược số phận. Nếu H trở về nhà, chắc chắn sẽ nhận sự trách mắng của cha mẹ. Nhưng sau đó có người gặp H tại Trà Ôn làm thợ tự do theo nghề cũ.
Không biết uy tín của Tám tôi xuống quá thấp hay là H không còn thích chui nhũi như trước, mà cả năm không thấy H trở qua Tam Bình. Thực tình mà nói, tôi cũng hết muốn gián tiếp hư hại tương lai của thằng H. Vì thế mà chuyến đi của Lâm và thằng Nam là cháu bà xã tui hồi 1986 ở cù lao Dung, tôi không dám mang mặt tìm đến rủ H. Tôi giả vờ hỏi thăm H qua người bà con của nó ở chợ Tam Bình, chỉ được người ta tiếp rất lạnh nhạt. Chuyến đó đi lọt êm xuôi, người bà con của nó cũng biết tin, vậy mà H vẫn biệt vô âm tín. Cả nhà tôi nhiều lúc buồn thương cho H, nhớ những ngày nó và thằng Lâm như cặp bài trùng cực khổ dang thân các nẻo xa xôi rồi trở về nhà nằm bẹp mấy ngày như chết. Bây giờ một đứa đạt thành ý nguyện, một đứa về quê sửa lại phần đời dang dở.
Sau chuyến đi dễ dàng của Lâm, tới chuyến đi của tôi vào năm 1987 bị máng cựa. Có lẽ ghe của tôi hơi nhỏ và máy yếu, giờ chót ra khơi thì 2 đứa em phụ giúp không dám tham gia. Ghe tôi bị chiếc tàu cá làm kinh tế của huyện đội Long Phú nã đạn kéo lại khi đã qua khỏi rất xa giàn đáy hàng khơi ngoài cửa biển. Bị bắt tại trận, đứng một mình trên mui ghe quơ chiếc nón ra hiệu đầu hàng. Nhưng tôi không bao giờ oán trời trách người, mà vui lòng nhận hậu quả việc làm của mình trước thượng đế và trước bạn bè tham gia. Tôi tranh thủ tâm tình với những bạn đồng hành trong chút tự do quý báu còn sót lại trên chiếc tàu huyện đội suốt hành trình giải giao từ ngoài biển trở vô bờ. Hai mươi mấy nạn nhân của chuyến đó đã thông cảm và rộng lượng tha lỗi cho tôi. Nhờ vậy, tôi còn con đường sống mà trở về gia đình.
Đầu năm 1989 tôi được thả về sau một năm biệt giam tại khám lớn Long Tuyền, trả cái giá như chỉ ước thấy trong mơ. Lúc còn nằm trong hộp bê tông nhỏ xíu đầy hơi người, dư thì giờ để nghĩ rằng: Nếu chuyến đó có thằng H và hai đứa em bà con cùng dính chấu, thì hậu quả sẽ cực kỳ khó khăn, không cách nào gỡ nổi. Ra tù, tôi được đứa cháu lọt qua Mỹ hồi năm 86, thằng Lâm gởi tiền về giúp tôi tạo dựng cơ đồ. Chuyến đi muộn màng sau ngày tất cả các trại tỵ nạn đóng cửa đã 5 tháng. Các nước quay 180 độ, đối đãi thuyền nhân như tù. Ra khơi ngay mùa giông bão, và nhất là chủ xị Tám Lớ vừa ra khỏi hộp. Công cuộc có quá nhiều điểm âm, vì thế không phải chỉ một mình Cao Tư là người từ chối.
Hơn tuần lễ trước ngày ra khơi, tôi có việc lái xuồng máy đuôi tôm đậu ngay bến sông cặp theo đường lên bệnh viện Trà Ôn. Nơi có bãi cát thoai thoải dành cho ghe trẹt lớn ủi vào chở xe du lịch và cơ giới qua lại doi bến đò trại ghe phía bên chùa Phước Hậu để lên lộ trải đá về huyện Bình Minh. Tôi ngồi giữ ghe chờ người bạn lên chợ Trà Ôn mua đồ chuẩn bị cúng tàu tại điểm neo trước ngày xuất phát. Đang bâng quơ dòm về hướng chợ thì thấy thằng H đi lon ton trên con lộ. Tôi mừng quá kêu nó bước xuống xuồng ngồi hỏi thăm việc làm ăn, nhà cửa và tình trạng vợ con. Tuy 3-4 năm không gặp mà tôi không một chút nghi ngại, vô đề thẳng: "Chú Tám có chuyến sắp đi vào mồng 1 tháng 7 âm lịch, ngày tây và ngày ta trùng số. Ghe lớn đậu bên vàm Cái Côn. H muốn xem cho biết thì lát nữa chú đưa cháu qua đó". H trả lời rất chân tình: "Không phải không tin chú, nhưng H đang lãnh công trình quan trọng của nhà nước phải hoàn tất gấp, cháu bây giờ nhút nhít là dễ ở tù. Nếu chú nói vụ nầy sau mùng 10 tháng nầy, H sẽ suy nghĩ lại, nhưng không dám hứa gì nữa. Mà sao chú đi vào tháng giông bão, điều mà chú từng dặn tụi cháu phải tránh". H cho biết vẫn còn độc thân và quên trả lời nhà cửa chỗ mở tiệm kinh doanh. Tôi nhìn theo dáng đi quen thuộc của H bước trở lên con lộ cho đến khi mất hút, níu một hy vọng mong manh cho đến khi anh bạn xách hai giỏ đồ đi xuống.
- Anh Tám mình thay đổi "lịch bay" theo ý kiến anh H, hay vẫn giữ quyết định ra khơi đúng ngày, chắc như đinh đóng cột?
- Đúng hẹn là phải đi Tư à. Vì liên quan nhiều người chuẩn bị chứ không là đinh búa gì ráo trọi. Nhưng trong đêm ra khơi, tàu mình vừa chạy qua Đại Ngãi thì hộp số của cá lớn bị tuột. Tụi tui dùng ghe nhỏ kéo hì hụt cả đêm mới về tới Cái Vồn, kế hoạch phải đình lại đến mồng 9.
- Anh có nghĩ là máy hư hay do những người giúp anh, chính họ dàn cảnh để chạy hàng đổ người thật đông ở chuyến sau. Ờ, mà anh có trở lại Trà Ôn rủ anh H hôm trước?
- Rõ ràng là tụi bến bãi gởi hàng lậu ngoài hợp đồng trong chuyến sau quá đông. Nhưng ý trời hay do lòng người thì cũng đã đưa đẩy cơ duyên giúp mọi người toàn vẹn rồi. Sau lần hoãn binh và định ngày mới, tôi có nghĩ đến thằng H ở Trà Ôn. Nhưng một lần được ở tù khiến tôi không còn liều lĩnh háo thắng. Tôi biết rằng mình không đảm bảo được điều gì cho tương lai của bất cứ ai. Phước hoạ không biết lúc nào mà chộp mà ngờ. Ví dụ anh em đánh bài cào, 3 lá được một nút hay bù ngắt thì cũng còn cơ hội để hoà. Còn vượt biển thì không ai đánh giá xác xuất thành công trót lọt là 1 phần trăm hay 1 phần ngàn. Thôi thì hãy để mỗi người an vui sống với hiện tại của họ, chỉ trừ người nào chịu chơi cần đến mình. Hai mươi mấy năm nay, tôi không liên lạc với H. Và hỏi lại gia đình Tám Lớ, thì H cũng không ghé qua nhà chị mình Tam Bình, coi như mọi sự chưa từng xảy ra.
- Chuyến đi ngày mồng 1 và mồng 9 có khác nhau về quân số như thế nào hả Tám Lớ?
- Lúc hợp đồng tiên khởi, Tám Lớ tui nắm con số cần thiết của mình là 35. Tôi ra giá với họ: Tôi xuất tiền mua ghe máy và dụng cụ, các anh lo an toàn bến bãi, lương thực và xăng dầu, mỗi bên 35 hàng họ. Chuyến mùng 1, người bên tôi hai mươi mấy, tính luôn bên họ tổng cộng chừng 60, ghe rộng rinh đã lắm.
- Ghe anh bao nhiêu tấn, chạy máy gì, chuyến đi mùng 9 có ai bỏ cuộc không?
- Ghe 35 tấn, máy thuỷ động cơ 6 blocks, tiếng máy hụ mạnh nghe như tàu nhà binh hồi xưa. Chuyến mùng 9 phía bên tôi không đổi, nhưng phía kia tụi nó đổ khẳm ghe. Tui yêu cầu tụi nó lấy bớt hàng mấy lần, đêm đó máy tàu nhỏ lớn nổ rần rần, người la tiếng chửi um sùm như cái chợ nổi giữa sông cái Đại Ngãi. Cuối cùng tổng số là 136, con số "magic" mà Nhân viên trên tàu Na-Uy chủ phương tiện cứu vớt, Hải quan Singapore, Đại diện Cao Uỷ LHQ, Đại diện Trưởng trại thuyền nhân ở Singapore phải đếm đi đếm lại 5 lần, tốn thì giờ rất lâu mới thống nhất trên các biên bản giao nhận của họ tại bến cảng Singapore.
- Cảm giác của anh thế nào khi bị tụi kia chơi gác trên đầu vào giờ chót, anh dựng gánh hát cho họ bán vé?
- Lo lắng nhưng không buồn. Chút hãnh diện vì cảm nhận được những đôi mắt và tình cảm trông cậy vào mình. Có thể em chưa biết cảm giác bẽ bàng khi bị từ chối. Vả lại, gia đình mình và sinh mạng mọi người là vô giá hơn những gì gọi là bán vé. Ai làm thương mại trên việc nầy thì kệ họ, họ có cực thì có hưởng, cũng xứng đáng thôi. Có người bạn giải thích chuyện nầy về khoa học. Anh ấy nói cũng không phải vô lý: Chỉ cần thêm hay bớt một người hay ngàn lý do làm chiếc ghe mình có thể nhanh hoặc chậm hơn, kết quả sẽ không bao giờ gặp chiếc tàu Na-Uy nhân đạo đó, cơ hội nhỏ như điểm 2 sợi tóc giao nhau giữa biển mênh mông. Riêng Tám Lớ tôi, những bài kinh nguyện cầu tha thiết của bà con trên chiếc ghe trôi giữa biển, như mang lại cho mình lòng tin yêu và sức sống.
- Xong chuyện thứ nhất chưa anh Tám?
- Đến chuyện thứ nhì, là một anh chàng cũng tên H trong xóm. Nhà nó sau chùa Cao Đài, lối xóm kêu nó là H "cao đài" để phân biệt với những người trùng tên gần đó. H sống với bà mẹ già hơi có tật đi nghiêng một phía và đứa em gái nhỏ hơn vài tuổi. Hằng ngày, H lấy sức làm mướn lặt vặt trong xóm. Cô em gái và má của H có nghề nấu xôi và thay đổi mặt hàng bằng vài loại bánh mỗi buổi sáng, họ bán dài theo xóm đến chợ xã. H Cao Đài trạng tuổi như H Trà Ôn nhưng nhà nghèo và hoàn cảnh gia đình bấp bênh đơn chiếc hơn. Tánh tình H hiền lương, ăn nói chậm rãi chất phác. H không phải là bạn thân của Tám Lớ, tôi và nó có đôi lần ăn nhậu với nhau qua một người bạn chung như kiểu facebook bây giờ. Vóc người H hơi thấp, nhưng bề ngang rắn chắc liền lạc, nghe nói H giỏi võ Thiếu Lâm chân truyền lúc gia đình còn ở Sài Gòn. Nếu H thích đi xa với tôi, thì chắc chắn H là người bạn mà tôi có thể nương dựa trên hành trình chông gai sắp đến. Thời gian gấp rút, đến lúc tôi phải nói thẳng lý do tại sao tôi muốn rủ H đi theo. H đồng ý không một tí thắc mắc hay lưỡng lự. Hiểu rõ hoàn cảnh gia đình H khó khăn và ít người, tôi kêu nó về hỏi mẹ, bà quyết định được hay không cũng cho tôi biết trong vòng vài ngày.
- Nói tới đây, em đoán là anh H Cao Đài không nỡ bỏ mẹ ở lại, anh ấy cũng sẽ từ chối như anh H Trà Ôn?
- Sai rồi, đừng cố đoán. Cho phép Tám Lớ cạn chai mừng anh em mình hội ngộ, rồi Tám tui từ từ trả lời.
- Xin mời!
- Xin lỗi anh em nghe giùm vụ nầy nhé, xem nó thơ ngây, thơ mộng hay lung linh cỡ nào. Chuyện là, vài tháng trước của chuyến ra khơi năm 1989, tôi có vài lần đến tiệm hàn tiện rất quen thân trong huyện để làm các dụng cụ cơ khí. Công việc là chế những vật dụng thô sơ, nhìn qua tầm thường vô tội như khung sắt giá đỡ có công dụng giữ chặt các bình ắc-quy, những cái ê-ke 90 độ hoặc đủ thứ góc alpha bằng sắt dẹp hoặc sắt hình L trong việc bắt bù-lon gia cố sàn gỗ phía lái tàu. Người chủ xưởng cũng là thợ đứng máy tiện. Có một lần, hắn kéo tôi ra sau nhà hỏi thăm. Chuyện cũng không ăn nhằm gì hết thì bà xã của nó xách giỏ đi chợ về tới. Thấy chúng tôi, mặt cô ấy đổi sắc rất khó coi. Thằng chủ bỏ ngang câu chuyện đi te te vô nhà, tôi đứng xớ rớ ngoài hè vì cảm thấy có điều không ổn. Liền sau đó, cô vợ bước ra sấn sả: "Anh Tám Lớ đừng nhỏ to rủ rê chồng tui, ai mà không biết anh ở tù vượt biên mới về. Tui nể ba anh có dính líu sui gia với ba tui, nhưng anh còn rủ rê chồng tui làm bậy, thì đừng trách tại sao tui tố cáo". Hên cho Tám tôi là sau nhà nó lúc đó vắng vẻ, không còn cái lỗ tai nào khác.
Còn nói về thằng H Tam Bình, trước 75 ba nó là lính chẳng may tử trận, má nó và hai anh em được chính phủ cấp nhà dành cho cô nhi quả phụ. Sau ngày đổi chủ, cư dân khu đó bị đuổi ra khỏi nhà. Bà mẹ dẫn hai đứa con về cất nhà trên đất phía sau chùa, nhờ vào người em của bà có chân trong ban Trị sự xin giùm. Một vài lần tôi tiếp xúc với gia đình dễ mến đó và qua những chuyện trò vô tình với người bạn ở gần nhà, tôi có niềm tin họ không phải là loại người hại bạn. Tôi kêu H về nhà hỏi mẹ nó, sẵn sàng trong vòng 10 ngày là vọt. Vì biết rõ hoàn cảnh khó khăn gia đình, tôi phải chấp nhận thêm 2 người trong gia đình nó sẽ biết chuyện.
Thói đời lâu nay và lúc đó vừa xảy ra vụ sát nhân tại đuôi cù lao Dung. Thảm hoạ cho người đàn bà giàu sang từ Sài Gòn đến cư ngụ tại nhà một Xã đội trưởng để chờ chuyến vượt biển, mà báo chí giật tít "Vụ án chiếc vòng ngọc thạch" với những bài phóng sự chi tiết. Thấy chuyện người, khiến tôi phải gài một vài thế ngầm cảnh cáo mưu toan tham vọng và chận trước mọi ác tâm phát triển. H Tam Bình là kế sách cuối cùng của tôi, xét ra cũng không nguy hiểm hoặc không cần thiết lắm trong thế trận tự bảo vệ. Vì vậy tôi cũng ít hổ thẹn nếu ai cho rằng tôi lợi dụng người nghèo túng thế như H.
Buổi sáng hôm đó trong tâm trạng hân hoan, tôi đi vòng ra sau chùa Cao Đài, tôi chào má của H đang ngồi trên chiếc ghế dựa bên dưới hiên nhà. Má nó nghe tôi hỏi thằng H, với gương mặt không buồn không vui, bà cho biết là H vừa đi theo một người bạn lên Sài Gòn làm phụ hồ, bà cũng không rõ ở đâu. Tám Lớ tui chới với và chờ xem bà có cho biết tin gì của H. Bà nói lãng một hồi, tôi chỉ còn cách nhờ bà nhắn cho H, rằng Tám Lớ tui có việc gấp nhờ nó. Tôi định nói chuyện thêm, nhưng thấy bà không niềm nở như mọi khi. Tôi chào bà, thất vọng ra về.
- Tui được anh Tám rủ vọt bằng tàu của ảnh, đêm đó tui mừng không ngủ được. Tui thức sớm, đến ngồi bên má tui đang đổ bánh bò, thủ thỉ xin má cho đi theo anh Tám Lớ. Má làm thinh, sáng ra má đưa tiền và vui vẻ biểu tui ra chợ mua sắm chút ít đồ mang theo. Tối ngay hôm đó, má tui nói: "Ngày mai con vô miễu Ngài xin lá xăm ông Quan Công cho má an tâm nghe con". Tui cũng nôn nóng đạp xe vô chùa buổi trưa chờ lúc vắng khách. Lắc lắc lâu lắm mới văng ra cây xăm, Chú hai L lấy thẻ và ống xăm, rồi đưa hai miếng gỗ cho tui xin "keo". Tui bỏ xuống chiếu 2 lần mới được miếng sấp miếng ngửa. Chú Hai L đến chiếc bàn có quyển sách và kêu tôi đến ngồi đối diện, Chú nói nhỏ: "Quẻ xăm của cháu xấu lắm, đi vượt biên là bị bắt lại, ngoan cố thì bị chìm tàu. Thôi, bỏ ý định đó, ở nhà kiếm nghề sống với mẹ già cháu ơi"
- Tui có nghĩ đâu mà nhanh. Vụ nầy mấy ông bà viết truyện phim Hong Kong nghĩ giùm. Coi hoài cảnh mấy anh cua gái hay âm mưu gì đó rồi nhờ thầy bói, thầy bàn xăm phụ giúp bàn thêm, vẽ vào cho đủ ép-phê, rồi vô tình bể mánh lộ hàng... vân vân.
- Ờ, H nè! Hôm đó em đi đâu mà không cho Tám Lớ biết?
Một người bạn xóm trong bàn nhậu đêm đó cứ tặc tặc lưỡi:
- Mười năm trước, chuyện làm ăn của Tám Lớ chưa đổ bể tùm lum cả huyện. Tám mình chưa vô hộp lúc còn trên khô, chắc là nhờ vào phước đức ông bà.
- Cao Tư đoán trúng phân nửa. Lúc đó còn xa ngày đi, tôi phân vân trong phác hoạ cách bốc an toàn cho 4 người nhà M. Rồi chợt nhớ mình có đứa cháu cần người uy tín giữ nhà và trông nom mảnh vườn gần 2 công ở gần cầu Bằng Tăng. Hỗm rày tụi nó chưa kiếm được người, mỗi đêm phải nhờ thằng anh đến ngủ giữ nhà. Điều kiện là tụi nó trả lương chút đỉnh việc trông coi chăm sóc nhà cửa vườn tược, người giữ vườn được hưởng trọn huê lợi cây trái trong vườn và phải ký giấy thoả thuận trả lại nhà đất bất cứ lúc nào khi họ kêu bán được. Tui khuyên anh M nhân dịp nầy ra riêng không tốn tiền, nhà trong ruộng thưa vắng mà kế sông, sẽ dễ dàng cho lúc mình rút êm. Bà xã tôi trách nhiệm sắp đặt người báo tin cho ông già vợ đứa cháu chủ nhà khi anh đóng cửa 3 ngày. Anh M đồng ý ký hợp đồng ngay. Hàng ngày anh đạp xe đi làm xa hơn 3 cây số, nhưng vợ con có nhà ở rộng rãi, vườn sẵn cây trái, cuộc sống gia đình anh thoải mái một chút. Vì nghịch đường tới lui, và chương trình đang làm nảy sanh nhiều việc dồn dập, Tám tui ít khi đến chơi với anh M như lúc ở chung xóm. Còn 3 ngày ra khơi, Tám tui cho người đến thông báo cho anh M, và cũng chính người đó sẽ hướng dẫn ghe taxi rước gia đình anh M tại Bằng Tăng. Lộ trình ghe máy chạy dọc con kênh cặp theo lộ 16 khoảng hơn 2 cây số rồi quẹo vô vàm Bình Phú, đậu chờ nước vực ròng để theo dòng nước chảy xuôi thì sẽ trổ ra vàm Sóc Tro gần chợ Trà Ôn. 3 giờ trưa hôm đó, ghe nhỏ dưới sự hướng dẫn của thằng Th đến đúng điểm hẹn bên cồn. Trên ghe không có gia đình anh M, tui nổi nóng với thằng cháu:
- Dzô, chăm phần chăm, Tám Lớ!
Nguyễn Thế Điển