User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
phamdinhchuong ngocminh
 
Nói đến nhạc sĩ Phạm Đình Chương là nói đến những nhạc phẩm tình ca lãng mạn được sáng tác từ thời tiền chiến cho đến bây giờ. Đa số nhạc phẩm do ông sáng tác được phổ từ thơ.
 
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương là một tên tuổi lớn của nền âm nhạc Việt Nam. Nếu phải so sánh giữa Phạm Đình Chương với Phạm Duy, có lẽ cả hai đều “kẻ tám lạng người nửa cân”, chỉ có điều Phạm Đình Chương không sáng tác nhạc đủ thể loại và theo kiểu “thị trường” như “Sức Mấy Mà Buồn”, “Bỏ Qua Đi Tám” hay nhạc Việt hóa v.v… mà Phạm Duy có sở trường. Phạm Đình Chương chỉ có một con đường để đi, là chọn con đường vì văn học nghệ thuật.
 
Chúng ta thử điểm qua những sáng tác tiêu biểu của Phạm Đình Chương từ trước đến nay:
 
Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng, Tiếng Dân Chài, Anh Đi Chiến Dịch, Bên Trời Phiêu Lãng, Đất Lành, Đêm Cuối Cùng, Đến Trường, Định Mệnh Buồn, Đón Xuân, Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng (viết với Phạm Duy), Đợi Chờ (viết với Nhật Bằng), Được Mùa, Hò Leo Núi, Khi Cuộc Tình Đã Chết, Khúc Giao Duyên, Kiếp Cuội Già, Lá Thư Mùa Xuân, Lá Thư Người Chiến Sĩ, Mỗi Độ Xuân Về, Mười Thương, Nhớ Bạn Tri âm, Sáng Rừng, Ta Ở Trời Tây, Thằng Cuội, Thuở Ban Đầu, Trăng Mường Luông, Trăng Rừng, Xóm Đêm, Xuân Tha Hương…
 
Nhạc phổ thơ có những ca khúc như: Buồn Đêm Mưa (thơ Huy Cận), Cho Một Thành Phố Mất Tên (thơ Hoàng Ngọc Ẩn), Nửa Hồn Thương Đau, Bài Ngợi Ca Tình Yêu, Dạ Tâm Khúc, Đêm Màu Hồng (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn, Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển, Quê Hương Là Người Đó (thơ Du Tử Lê), Đôi Mắt Người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Hạt Bụi Nào Bay Qua (thơ Thái Tú Hạp), Heo May Tình Cũ (thơ Cao Tiêu), Mắt Buồn (thơ Lưu Trọng Lư, tặng Lệ Thu), Màu Kỷ Niệm (thơ Nguyên Sa), Mộng Dưới Hoa (thơ Đinh Hùng), Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn), Người Đi Qua Đời Tôi (thơ Trần Dạ Từ)… và còn rất nhiều nhạc phẩm khác v.v…
 
Một chút tiểu sử:
 
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh năm 1929 và qua đời vào năm 1991. Khi soạn nhạc ông ký bút hiệu Phạm Đình Chương, còn đi hát, chỉ trong ban hợp ca Thăng Long, ông có tên gọi ca sĩ Hoài Bắc.
 
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh 14/11/1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ở Hà Nội còn quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một gia đình mang truyền thống âm nhạc, thân phụ là Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của cha ông, sinh được 2 người con trai tên Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm tức ca sĩ Hoài Trung, trong ban hợp ca Thăng Long như đã nói. Người vợ sau tức mẹ ruột Phạm Đình Chương sinh 3 người gồm trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương, và cô con gái út là Phạm Thị Băng Thanh, tức nữ ca sĩ Thái Thanh.
 
Từ nhỏ Phạm Đình Chương được nhiều người chỉ dẫn về nhạc lý, nhưng phần lớn ông vẫn tự học là chính. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương tức ca sĩ Hoài Bắc cùng các anh chị em ruột hai dòng như Hoài Trung, Thái Hằng, Thái Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV, để từ đó thành tên Ban hợp ca Thăng Long.
 
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác âm nhạc vào năm 1947, lúc mới 18 tuổi, nhưng phần nhiều nhạc phẩm của ông thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Các nhạc phẩm đầu tiên như Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng, Hò Leo Núi… có không khí hùng tráng tươi trẻ.
 
Năm 1954, nhạc sĩ Phạm Đình Chương cùng gia đình chuyển vào miền Nam sinh sống, rồi tái lập lại Ban hợp ca Thăng Long để hoạt động. Thời kỳ này các sáng tác của ông thường mang âm hưởng miền Bắc như nói lên tâm trạng hoài hương của mình như các nhạc phẩm: Khúc Giao Duyên, Thằng Cuội, Được Mùa, Tiếng Dân Chài… Thời gian sau, ông viết nhiều bản nhạc nổi tiếng và vui tươi hơn: Xóm Đêm, Đợi Chờ, Ly Rượu Mừng, Đón Xuân…
 
Sau khi cuộc hôn nhân với nữ ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau thương vào những bài nhạc tình da diết, đau nhức, buốt giá: Đêm Cuối Cùng, Thuở Ban Đầu, Người Đi Qua Đời Tôi, Nửa Hồn Thương Đau…
 
Có thể nói Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài hát bất hủ, có một sức sống riêng như Đôi Mắt Người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng Dưới Hoa (thơ Đinh Hùng), Nửa Hồn Thương Đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê) ông cũng đóng góp cho nền tân nhạc Việt với một bản trường ca bất hủ mang tựa “Hội Trùng Dương” viết về ba con sông nước Việt là sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.
 
Sau 1975 nhạc sĩ Phạm Đình Chương định cư tại California, Hoa Kỳ, và mất vào ngày 22/8/1991.
 
“Nửa Hồn Thương Đau” Với Tâm Sự Riêng Tư
 
Vào những năm 1960 thế kỷ trước, báo chí Sài Gòn đã hao tốn rất nhiều giấy mực vì phải đăng nhiều kỳ vụ nhạc sĩ Phạm Đình Chương ly dị vợ là nữ ca sĩ Khánh Ngọc. Tòa án xét xử nhiều lần chưa xong, vì thế vụ việc càng làm cả hai trở nên nổi tiếng, vừa theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
 
Bởi lúc đó, ban hợp ca Thăng Long đang nổi đình đám nhất trong sinh hoạt ca vũ nhạc kịch thời bấy giờ, lúc ấy “nhóm Thăng Long” bao gồm nhiều nghệ sĩ nổi danh như Hoài Trung, vợ chồng ca sĩ Thái Hằng – Phạm Duy, ca sĩ Thái Thanh, vợ chồng ca nhạc sĩ Phạm Đình Chương (Hoài Bắc) – Khánh Ngọc. Nếu không kể đến người chị dâu Kiều Hạnh cũng là một nữ kịch sĩ đang được ái mộ trên các sân khấu thoại kịch.
 
Phải nói trong thời gian sau 1954, các ca kịch sĩ miền Bắc xuất hiện rất đông đảo trên các sân khấu lẫn đài phát thanh như Vũ Huân, Vũ Huyến, Lê Văn Vũ Bắc Tiến, Kiều Hạnh, Duy Trác, Anh Ngọc, Châu Hà, Hà Thanh v.v… Một phần, do ca sĩ trong Nam lúc đó chưa xuất hiện nhiều tên tuổi lớn, chỉ có một số ca sĩ đầy triển vọng từ phòng trà Đức Quỳnh giới thiệu như Bạch Yến, Cao Thái, sau có Minh Hiếu, Thanh Thúy, Túy Phượng… nhỏ hơn thì có Quốc Thắng, Kim Chi trong ban nhi đồng của nhạc sĩ Nguyễn Đức.
 
Khánh Ngọc đang là vợ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, là một ca sĩ được nhiều người biết với tên gọi “ngọn núi lửa”, bởi cô có bộ ngực hấp dẫn và thường quyến rũ khán giả say đắm mỗi khi cô lên hát. Đồng thời Khánh Ngọc còn đóng mấy phim với nam tài tử Lê Quỳnh một loạt phim nói về những ngày di cư từ Bắc vào Nam do Mỹ thực hiện.
 
Trước khi đưa đơn ra tòa, nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã nghe phong phanh Khánh Ngọc ngoại tình. Nhưng vì tình yêu nên ông vẫn tin tưởng vợ và bỏ ngoài tai tất cả những nguồn tin “lá cải” ấy. Chỉ đến khi một số người bạn hẹn ông đi bắt ghen tại Nhà Bè thì sự việc mới đổ bể. Lúc đó báo chí Sài Gòn biết rất nhanh, và vụ “ăn chè Nhà Bè” được các báo khai thác triệt để, do vợ chồng Phạm Đình Chương và “thủ phạm” đều là những người nổi tiếng, mọi người mới biết kẻ trong cuộc gây ra chuyện này không ai xa lạ, chính là người anh rể của ông.
 
Người đau lòng nhất chính là Phạm Đình Chương chồng Khánh Ngọc, vì ông rất yêu vợ, nhưng bấy giờ dư luận xã hội đều đã rõ tường tận nên đành phải gửi đơn xin ly dị.
 
Đây là quãng thời gian đau khổ, Phạm Đình Chương không còn tâm trí biểu diễn cùng các anh chị trong Ban hợp ca Thăng Long, ông lui về trong bóng tối thầm lặng viết những bài tình ca buồn, như để tâm sự với chính mình. Một loạt ca khúc mang tâm trạng như thế ra đời như “Đêm Cuối Cùng”, “Người Đi Qua Đời Tôi”, “Khi Cuộc Tình Đã Chết”, “Thuở Ban Đầu”, “Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển”…
 
Sau khi ly dị, nhạc sĩ Phạm Đình Chương được quyền nuôi con, khi ấy mới khoảng 4 – 5 tuổi, ông bắt đầu đi hát trở lại. Một lần tình cờ gặp Khánh Ngọc trên một sân khấu đại nhạc hội, ông có ý muốn đưa cô vợ đã ly dị về nhà vì trời đang mưa, nhưng bị từ chối. Bởi vậy khi lặng lẽ trở về căn nhà kỷ niệm với một thời sống cùng Khánh Ngọc, nhìn qua màn mưa nhớ về những ngày hạnh phúc, giờ đang trôi theo dòng nước.… có người nói Phạm Đình Chương định tự tử lúc bấy giờ, nhưng nghe tiếng khóc của con, ông mới từ bỏ ý định!?
 
Hình ảnh của đêm khốn cùng ấy đã đi vào từng lời bài hát “Nửa Hồn Thương Đau” được Phạm Đình Chương viết trong đêm rã rời đó. Nếu ai đã nghe một lần bài hát này và cũng đồng cảm với cuộc đời của ông sẽ hiểu được tâm hồn con người chỉ có thể chịu đựng một giới hạn nhất định.
 
Người Phổ Thơ Mang Tính Thiên Tài
 
Thật ra nhạc phẩm “Nửa Hồn Thương Đau” của Phạm Đình Chương là được ông phổ từ thơ của Thanh Tâm Tuyền qua bài thơ “Lệ Đá Xanh”, nhưng ông đã đổi tựa và thêm ý tứ cho phù hợp với tâm trạng của ông lúc bấy giờ.
 
Có người nhận xét, lối phổ thơ thành nhạc của nhạc sĩ Phạm Đình Chương mang đặc tính thiên tài, từ những vần thơ của các thi sĩ trở thành những nhạc phẩm luôn lưu lại nhiều kỷ niệm sâu đậm trong lòng người ái mộ như các ca khúc Đôi Mắt Người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Nửa Hồn Thương Đau, Đêm Màu Hồng, Dạ Tâm Khúc (thơ Thanh Tâm Tuyền), Màu Kỷ Niệm (thơ Nguyên Sa), Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn), Người Đi Qua Đời Tôi (thơ Trần Dạ Từ), Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê) v.v… cho nên nếu so sánh cung cách phổ thơ của Phạm Duy, có thể nói Phạm Đình Chương xuất sắc không kém, do ông lấy văn học đưa vào nhạc, còn Phạm Duy đôi khi đưa thơ vào nhạc mang tính thị hiếu nhiều hơn.
 
Có người nói sự nghiệp của nhạc sĩ Phạm Đình Chương còn rộng tỏa trên bình diện của thể nhạc trữ tình lãng mạn, với những sáng tác phong phú đủ chủ đề về tuổi trẻ, tình yêu, hiện thực, hoặc chia sẻ nhịp rung cảm cùng mọi người như các tác phẩm: Bài Ca Tuổi Trẻ, Thuở Ban Đầu, Mười Thương, Mộng Dưới Hoa, Bài Ca Ngợi Tình Yêu, Đêm Cuối Cùng, Heo May Tình Cũ, Xóm Đêm v.v…
 
Xuyên qua các nhạc phẩm trên, người ta lại càng nhận thức đầy đủ hơn nơi ý nhạc lời ca của Phạm Đinh Chương có một tâm hồn tươi trẻ, nồng nhiệt và cũng không kém phần thương đau, xót xa trong tan vỡ của yêu đương luyến nhớ, hay những khối chân tình qua từng bước chân phiêu bạt mà ông đã đi qua.
 
“Có lẽ sự rung động dễ thương của những con tim khi chớm nở loài hoa tình yêu mới là cảm xúc tuyệt diệu nhất được Phạm Đình Chương diễn tả bằng chính nội tâm hiện thực của ông qua ca khúc “Mộng Dưới Hoa” phổ thơ Đinh Hùng:
 
Chưa gặp em anh vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn anh không nói năng….
 
“Cuối cùng không thể không đề cập đến “Trường Khúc Tam Giang” tức “Hội Trùng Dương” với những nỗi niềm diễn tả tâm tư mang lời tự thuật thật sống động, đặc sắc của 3 con sông lớn đại biểu cho mạch sống của ba miền và được xem như là một đại tác phẩm trường tấu để đời của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Trường ca này được liên kết thật chặt chẽ bằng những tiết tấu phối hợp sự biến âm đặc biệt biểu hiện tình cảm khi nhẹ nhàng, lúc khoan thai, khi hùng tráng, lúc trầm lắng, khi ngọt ngào, lúc thiết tha, quyện lẫn trong các câu hò mang sắc thái âm điệu thổ ngữ Bắc, Trung, Nam rất duyên dáng chân thành và trong sáng tình yêu quê hương vốn được hun đúc từ ngàn đời, tựa như 3 dòng sông tuôn chảy miệt mài ra biển Đông.
 
Cuộc Đời Dinh Hùng Người Thi Sĩ Yểu Mệnh
 
Thi sĩ Đinh Hùng sinh ngày 3/7/1920, thuộc người làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông nay thuộc huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Ông là con của cụ Hàn Phụng, một gia đình trung lưu, từ lâu đã ra lập nghiệp ở Hà Nội. Khi còn sống thi sĩ Đinh Hùng cho biết, ông được hoài thai vào năm 1919 trên đất xứ người là Phi Luật Tân (Philippines) nhưng lại ra đời ở Việt Nam ngay trại Trung Phụng gần toà Khâm Thiên Giám cũ, Hà Nội.
 
Đinh Hùng là con út gồm sáu anh chị em: Anh cả là Đinh Lân, các chị là Loan, Yến, Hồng, Oanh. Chị Đinh Thục Oanh lớn hơn Đinh Hùng một tuổi sau lấy thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Thuở nhỏ thi sĩ Đinh Hùng theo bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại trường trường Bưởi, Hà Nội. Và sau khi đậu bằng Cao Đẳng Tiểu Học hạng bình thứ ông được học bổng theo ban chuyên khoa để thi Tú Tài bản xứ thì “thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn” (theo lời kể của ông anh rể Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang để đi viết văn, làm thơ.
 
Và hình như gia đình thi sĩ Đinh Hùng đa số mọi người đều yểu mệnh, chưa ai bước qua khỏi tuổi 60. Năm 1931, người chị thứ ba của thi sĩ tên Tuyết Hồng tự tử tại hồ Trúc Bạch vì một mối tình duyên trắc trở. Mấy tháng sau cha ông cũng qua đời khi chưa đến tuổi 50. Ba năm sau, người chị lớn nhất của ông cũng qua đời. Còn nếu tính đến ông khi mất vào ngày 24/8/1967, thì cũng chỉ mới hưởng dương có 48 tuổi!
 
Nói về thân thế sự nghiệp của thi sĩ Đinh Hùng. Năm 1943, ông theo sống với chị là bà Thục Oanh và thi sĩ Vũ Hoàng Chương tức anh rể của ông. Cũng năm này, ông cho xuất bản tập văn xuôi Đám ma tôi (NXB Tân Việt) và thơ đăng trên Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan, Giai phẩm Đời Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn… Nhưng thật sự bắt đầu nổi tiếng với bài thơ “Kỳ Nữ” mà Thế Lữ in trong truyện Trại Bồ Tùng Linh.
 
Năm 1944, sau khi thi sĩ Vũ Hoàng Chương cưới bà Thục Oanh đưa về Nam Định sinh sống, Đinh Hùng ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ Đài, với sự cộng tác của một số bạn như Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Mai Châu… Cùng năm này, ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thanh về Thái Bình dạy học. Khi ấy, Vũ Hoàng Chương và vợ đang ở đó.
 
Năm 1949, ông lại cùng gia đình trở lại Hà Nội. Tại đây ông cho ấn hành giai phẩm Kinh Đô Văn Nghệ (1952) và Mê Hồn Ca (1954).
 
Tháng 8 năm 1954, thi sĩ Đinh Hùng và gia đình di cư vào Nam, cộng tác với tờ nhật báo Tự Do của Phạm Việt Tuyền, có sự cộng tác của Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong… Năm 1955, nhật báo Tự Do đình bản, ông về cộng tác với Đài Phát Thanh Sài Gòn, phụ trách ban thi ca Tao Đàn, chuyên về thơ ca, cho đến hết đời. (Ban thi ca tao đàn từng đưa những tên tuổi ca sĩ như Hồng Vân, Hoàng Oanh thành những người đọc và ngâm thơ hay nhất lúc bấy giờ).
 
Ngoài việc làm thơ ký bút hiệu Đinh Hùng, ông còn dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang lúc viết tiểu thuyết. Ông viết tiểu thuyết dã sử Cô Gái Gò Ôn Khâu, Người Đao Phủ Thành Đại La và làm thơ trào phúng đăng trên báo Tự Do, báo Ngôn Luận.
 
Năm 1961, Đinh Hùng cho in tập Đường vào tình sử (đoạt giải Văn chương về thi ca năm 1962). Năm 1967, cho ra tuần báo Tao Đàn thi nhân, nhưng mới phát hành được 2 số thì ông mất lúc 5 giờ sáng ngày 24 tháng 8 năm 1967 tại bệnh viện Bình Dân, Sài Gòn, vì bệnh ung thư gan.
 
Sau khi ông mất, nhà xuất bản Giao Điểm cho phát hành tác phẩm Ngày Đó Có Em vào ngày 16 tháng 10 năm 1967. Ngoài những tác phẩm kể trên, thi sĩ Đinh Hùng còn có 8 tác phẩm chưa xuất bản: Tiếng Ca Bộ Lạc (thơ), Tiếng Ca Đầu Súng (hồi ký), Dạ Lan Hương (văn xuôi), Sử Giả (tùy bút), Vần Điệu Giao Tình (cảo luận) và 3 kịch thơ: Lạc Lối Trần Gian, Phan Thanh Giản, Cánh Tay Hào Kiệt.

Mặc dù Đinh Hùng có viết văn, viết kịch, nhưng ông nổi tiếng là nhờ thơ. Các thi phẩm như Mê Hồn Ca, Đường Vào Tình Sử là hai thi phẩm nổi trội.
 
Trong Từ Điển Văn Học có nhận xét về ông như sau:
 
“Đinh Hùng là người tài hoa, có khả năng hội họa, biết chơi vĩ cầm, thích thú với môn thư pháp bằng chữ quốc ngữ… và sống phóng túng, có khi như một lãng tử.
 
“Ở phần đầu Mê Hồn Ca, thơ ông bộc lộ một cảm giác cô độc đặc biệt đến bi thiết: Bài Ca Man Rợ, Những Hướng Sao Rơi, Người Con Gái Thiên Nhiên… Ở phần hai với tiêu đề Thần Tượng, chứa đựng những vần thơ tôn giáo hóa tình yêu: Kỳ Nữ, Hoa Sử, Hương Trinh Bạch…. Một khía cạnh khác của thơ Đinh Hùng là sự ám ảnh của thế giới bên kia: Gửi Người Dưới Mộ, Cầu Hôn, Tìm Bóng Tử Thần…
 
Hiện tượng này hẳn liên quan đến nhiều chuyện tang tóc bất bình thường, trong thời gian ngắn, liên tục đổ ập xuống đời sống của tác giả thưở thanh thiếu niên.
 
“Thơ Đinh Hùng hàm súc, lối thao tác “tụ” và “tán” nhanh chóng, những “từ” và “tứ” đột xuất, khiến thơ ông có khả năng gây được cộng cảm, dễ lưu vào tâm trí người đọc”. (bộ mới, NXB Thế giới, 2004)
 
Tình thơ trong thi phẩm Đinh Hùng
 
Nhà thơ, nhà văn thường có tính tình lãng mạn, trữ tình, như ở thuở thanh niên thi sĩ Đinh Hùng đang được cấp học bổng để theo học ban chuyên khoa. Nhưng vào một ngày đẹp trời thì “tiếng sét ái tình” bỗng nhiên đánh trúng tim ông:
 
Có chàng mang lòng thương
Đi dạo muôn con đường.
Một hôm dừng trước mộng,
Yêu nàng tên Tần Hương. (Tần Hương – Đường Vào Tình Sử)
 
Người đẹp ấy tên là Kiều Hương, nhưng ông sợ gây rắc rối cho nàng khi đi lấy chồng nên sửa tên là Tần Hương. Mối tình ấy của Đinh Hùng tuy là mối tình đầu nhưng không sâu sắc, vì chỉ là tình yêu đơn phương. Nên khi nàng Kiều Hương đi lấy chồng, ông không buồn như nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà từng thất tình khi nghe người yêu đi lấy chồng để có một thi phẩm bất hủ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím”. Còn ông chỉ có 2 bài thơ mang tên “Tần Hương” và “Bài Hát Mùa Thu” đăng trong tập thơ Đường Vào Tình Sử.
 
Mối tình thứ hai mới thực sự mãnh liệt và ghi dấu suốt đời trong tâm khảm của nhà thơ. Nàng là một cô bé họ xa, tên Bích Liên, thỉnh thoảng đến chơi nơi trại Trung Phụng của ba ông, nên thi sĩ Đinh Hùng có dịp quen thân. Thuở ấy nàng còn bé nhưng xinh đẹp tuyệt vời, và vì tên nàng là Liên nên Đinh Hùng viết:
 
Người đẹp ngày xưa tên giống hoa,
Mùa xuân cây cỏ biếc quanh nhà.
Thùy hương phảng phất sen đầu hạ,
Lén bước trang đài tới gặp ta. (Liên Tưởng – ĐVTS)
 
Hai người mỗi ngày một lớn, tình yêu cũng cùng với tháng năm mà lớn dần theo, cô bé Liên càng ngày càng đẹp. Hai người yêu nhau nhưng trong mối tình hoàn toàn trong trắng. Không may nàng Liên bị bệnh phổi nặng, sắc đẹp ngày càng kỳ ảo và huyền hoặc khiến ông cứ ngất ngây, trong khi đó sức khỏe của nàng cứ hao mòn rồi từ giã cõi đời vào khoảng năm 1940. Đó là cái chết thứ tư của người thân yêu mà Đinh Hùng chứng kiến trong khoảng thời gian chưa tới mười năm.
 
Mất Liên, thi sĩ Đinh Hùng đau đớn như điên dại:
 
Qua xứ ma sầu, ta mất trí,
Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền.
Trời ơi! Trời ơi! Làn tử khí,
Lạc lõng hương thầm đóa Bạch Liên. (Cầu Hồn – Mê Hồn Ca)
 
Từ đó Đinh Hùng thường làm những bài thơ “Chiêu Niệm”, tên Liên được thay thế bằng những tên khác, nào Diệu Hương, Diệu Thư, nào Ý Liên, Bạch Liên, Diệu Liên, nào Em Buồn, Em Đau Thương, Sầu Hoài Thương Nữ, nào Thần Nữ, Kỳ Nữ v.v… nhưng thực ra cũng chỉ có một nàng Bích Liên thôi. Khi nàng chết, Đinh Hùng bỏ trường đi sống lang bạt kỳ hồ, khi dạy học ở Hà Đông, lúc gia nhập một ban nhạc tài tử đi trình diễn ở vùng Bắc Cạn. Đi đâu Đinh Hùng cũng mang theo tấm di ảnh của nàng Bích Liên.
 
Nhà văn Mai Thảo thuật:
 
“Tôi được biết là sau ngày người con gái mang tên Liên từ trần, Đinh Hùng bỏ đi đến Hải Dương… Vượt Hồng Hà, bỏ Hà Nội, chàng tuổi trẻ khóc ngất, không mang theo gì hết ngoài nỗi đau đớn và một tấm hình. Đó là di vật cuối cùng của Liên…”
 
Nhà thơ có cá tính. Ai đã gặp thi sĩ Đinh Hùng một lần thì khó lòng quên được. Thân hình mảnh mai, nước da xanh như tàu lá, đôi chân ngắn, bàn tay đẹp như bàn tay con gái mềm mại thon thon, và rất đẹp khi “vân vê” điếu thuốc lào hay khi lướt nhẹ trên chiếc vĩ cầm. Đôi mắt mơ hồ và huyền hoặc dường như luôn luôn in bóng một trời thơ diệu kỳ và mộng ảo. Giọng nói Đinh Hùng rất đặc biệt, nó “vang vang mà nhừa nhựa, nửa như thoát lên cao cùng mây, nửa như la đà cùng khói” (Hoàng Hương Trang).
 
Ngay lúc nằm trên giường bệnh, giọng nói ấy cũng vẫn còn nồng nàn nỗi yêu đời và niềm lưu luyến tình người. Còn vẻ bề ngoài, ông bao giờ cũng chải chuốt, tứ thời bát tiết lúc nào cũng diện complet thắt cravate cho dù là mùa hè đỏ lửa, đầu chải láng, miệng ngậm pipe, đôi vai nghiêng bởi chiếc cặp dày và nặng trĩu. Gặp bạn thơ thì mừng rỡ, chèo kéo bắt uống cho bằng được một vài ly để rồi say sưa nói về chuyện văn thơ không dứt.
 
Tạ Tỵ gợi lại một vài kỷ niệm: “Có những đêm đông Hà Nội tôi đến thăm Hùng tại căn nhà cổ nằm sâu trong ngõ hẹp ở cửa ô Cầu Rền, chẳng cách xa phường Dạ Lạc là bao. Ở tuổi hoa niên, tôi quen nhiều bạn biết uống rượu, nhưng tôi chưa thấy ai uống hào bằng Đinh Hùng và Văn Cao. Riêng Hùng có thể uống hai lít đế không cần đồ nhắm, vì thế Hùng mới có gan đối ẩm với Tản Đà hàng nửa ngày trời”. Và cũng vì thế mà bạn bè không ai cảm thấy bất ngờ khi hay tin Hùng bị ung thư gan ở tuổi 48.
 
Những tác phẩm thi ca của Đinh Hùng.
 
Thi sĩ Đinh Hùng có hai thi phẩm lớn là Mê Hồn Ca và Đường Vào Tình Sử là nổi bật hơn hết. Cho nên các nhà thơ tên tuổi vào những năm 60, 70 thế kỷ trước từng tranh cãi về giá trị của hai tập thơ này. Theo nhà thơ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt chọn Đường Vào Tình Sử, thì nhà văn Trần Phong Giao lại chọn Mê Hồn Ca. Trần Tuấn Kiệt nói: “Mê Hồn Ca tuy đặc biệt nhưng thua xa tiếng thơ của tập Đường Vào Tình Sử”. Còn Trần Phong Giao nói: “Ai cũng bảo Mê Hồn Ca là tuyệt tác, chỉ có ́mình cậu là khác”. Rồi Trần Phong Giao khẳng định: “Trong tất cả những tác phẩm của Đinh Hùng, gặp trường hợp chỉ được quyền cất giữ một cuốn thì tôi sẽ không ngần ngại gì trong việc chọn lựa Mê Hồn Ca. Vì đó là tất cả vũ trụ thơ anh. Vì đó là tất cả anh”.
 
Nhận định về thi phẩm Mê Hồn Ca, nhà nghiên cứu Phạm Việt Tuyền cho rằng “thi phẩm này thuộc loại thơ nói ít hiểu nhiều, cái hay cốt ở chỗ sử dụng nghệ thuật ném hỏa mù mơ mộng lên những mảnh thực tại tản mác, điều mà Đinh Hùng chắc đã chịu ảnh hưởng ít nhiều nơi các nhà thơ tượng trưng của Pháp như Baudelaire, Rimbaud. Thế giới Mê Hồn Ca là thế giới của đắm đuối say mê, của hoang sơ man dại, của chết chóc lạnh lùng, của nhiệm mầu huyền bí. Tình yêu trong Mê Hồn Ca thiết tha, mãnh liệt và kinh khủng. Có nhà thơ nào đã xây dựng được cả một khu nghĩa trang huyền ảo như những bài Tìm bóng tử thần, Màu sương linh giác, Cầu hồn, Thoát duyên trần cấu, Gửi người dưới mộ… như Đinh Hùng?”
 
Còn nhà thơ nhà giáo Bàng Bá Lân cũng thích Mê Hồn Ca hơn Đường Vào Tình Sử, thích nhất Bài Ca Man Rợ vì bài thơ này rất giàu vần điệu và gợi hình, nhạc thơ toàn bài hùng mạnh một cách man rợ hợp với nhan đề..
 
Những ngày cuối cùng của Đinh Hùng
 
Vào trưa ngày 23/8/1967 – trước ngày Đinh Hùng mất – các bạn thơ và văn nghệ sĩ họp mặt trong một quán nhỏ, nhà văn Thanh Nam bộc bạch đọc bốn câu thơ mà ông rất thích:
 
Khi tôi ngồi xuống ở bên em,
Giở tập thư xưa đọc trước đèn.
Vẫn ngọn đèn mờ, trang giấy lạnh,
Tiếng mùa thu động, tiếng mưa đêm.
 
Nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà ở đó, tấm tắt khen thơ hay quá, nhưng khi hỏi xuất xứ thì nhà văn Thanh Nam không nhớ, chỉ biết đó là thơ Đinh Hùng trong cuốn Đường Vào Tình Sử. Về đến nhà nhà thơ Kiên Giang vội tìm cuốn Đường Vào Tình Sử để đọc bài thơ có bốn câu ấy. Đó là bài Gặp Nhau Lần Cuối.

Tháng 7 năm 1967 khi bệnh tình của thi sĩ Đinh Hùng bỗng trở nặng, các thân hữu liền đưa ông vào bệnh viện Bình Dân để cứu chữa, nhưng bệnh ung thư chỉ có thầy tiên thuốc thánh mới cứu nổi.
 
Khi nhà thơ Tô Kiều Ngân vào thăm thì “trước mắt tôi không phải là chàng thơ phong vận từng bơi qua Hồ Tây, từng đánh đàn mandoline trong các phòng trà, nói chuyện có duyên, làm thơ tình ái rất hay. Người nằm đó chỉ là một bệnh nhân, mắt rất buồn, hơi thở mệt nhọc, đang chờ mổ mà tin tưởng thì rất mong manh… Người thơ của chúng ta trầm mình trong nỗi cô đơn giữa bốn bức tường bệnh viện lạnh lùng, đôi vai gầy, gầy thêm, khuôn mặt nhỏ, nhỏ thêm. Cuộc sống ở đây hoàn toàn bị lùi xa, bị tách rời”.
 
Có những người “vô danh” tình nguyện cho ông máu để đủ sức chịu đựng khi giải phẫu, nhưng đến nơi thì ông đã đuối quá ra đi rồi.
 
Tô Kiều Ngân viết tiếp: “Trước giờ liệm Hùng, tôi giở tấm vải trắng nhìn anh lần chót. Mớ tóc xõa ra, đôi mắt nhắm nghiền, da mặt trắng xanh. Buồn quá, không ngờ Hùng chết nhanh như vậy. 48 năm, thôi thế cũng được, 48 năm miệt mài với thơ, với nhạc, với Bộ lạc, Hải tần, Kỳ nữ, với “mây trắng bay đầy gối”, với “hiu hắt tiếng dương cầm”, đời anh toàn gắn liền với thơ, với rượu, kể ra đã thừa chất đẹp”
 
Hôm đưa tang Đinh Hùng vào Chủ Nhật 27-8-1967 tức 22 tháng 7 năm Đinh Mùi – là một ngày trong tiết thu sơ, bầu trời ảm đạm. Bạn bè đi đưa tuy không đông lắm nhưng ai nấy đều chan chứa trong lòng niềm tiếc thương vô hạn một nhà thơ tài hoa mà yểu mệnh.
 
“Bên chiếc huyệt đào sẵn, Vũ Hoàng Chương gọi lớn: “Đinh Hùng! Đinh Hùng!” nhưng người thơ phong vận không bao giờ lên tiếng nữa. Bậc đàn anh Vi Huyền Đắc ngậm ngùi bên bờ huyệt, Vũ Khắc Khoan lặng lẽ ném một hòn đất xuống quan tài. Thanh Nam bỏ ra ngoài lặng lẽ đưa khăn lau mắt, Hoàng Anh Tuấn khóc lăn bên nấm mộ… Khi ra về, đi bên cạnh Tuấn, tôi mới hỏi “Toa hôm nay xúc động quá nhỉ!” Tuấn nói “Đâu mình có khóc Đinh Hùng, khóc cho mình đấy chứ!” (Ký giả Lô-Răng).
 
Và như lời tiên tri, thi sĩ Đinh Hùng từng có bài thơ “Cung Đàn Tưởng Niệm” để khi ông chết như một di chúc để lại cho mọi người, đọc khi đến viếng mộ ông, một thi sĩ tài danh yểu mệnh.
 
Nguyễn Việt