
Hôm nay là ngày 26 tháng Tư, 2020. Tôi tiếp tục câu chuyện từ đoạn ông VõVV, người có nhã ý và trong một sự tình cờ đã đưa tôi vào phi trường Tân Sơn Nhất lúc 5 giờ chiều ngày 25 tháng Tư, 1975, 45 năm về trước.
Khi cái vẫy tay từ giã của ông Võ khuất trong màn nắng đang nhạt dần của một buổi chiều đầy những âu lo và phiền muộn, tôi bỗng thấy mình như một kẻ lạc loài, cô đơn và yếu đuối. Giằng co giữa sự trở về nhà hay ở lại đây! Lúc thì đổ tội là vì nghe ông Võ “xúi dại”, khi thì nhận là do lỗi của mình vì đã không tự quyết. Nhưng thôi nghĩ gì thì nghĩ, thực tế là tính mạng mình đang cheo leo trên biên giới phải chọn lựa, giữa tự do và tù ngục nếu Sài Gòn thất thủ, nhất là đối với vai trò của một phóng viên quân đội.
Bây giờ là 7 giờ tối, đèn cũng đã bật sáng trong khuôn viên DAO, tôi bắt đầu nhận rõ được nhiều khuôn mặt thân quen đang đứng, ngồi hay nằm dài để chờ chuyến bay di tản khỏi VN. Có kẻ thì ba hoa, chích chòe, có người thì im lặng thở dài! Tôi chợt tỉnh: À thì ra họ cũng như mình thôi, đang chạy trốn họa Cộng Sản sắp chụp xuống quê hương. Có khác chăng là họ có giấy tờ chính thức để được gọi tên lên các chuyến bay, còn mình thì không, thế nhưng điều đó đâu ai biết được? Tự tin như vậy, tôi ngẩng mặt bước vào đám đông “nhận diện bà con”.
Nhóm đầu tiên là mấy tên nhạc trẻ thân quen gồm có Trung Hành của Mây Trắng, Quang Minh, tức Minh mập CBC, Minh “rè” của Keyhole và một vài người khác đã được ông Oliver, một bầu show người Mỹ, đưa vào DAO từ mấy ngày nay và đang chờ chuyến bay. Trung Hành cho biết, Trung Nghĩa của The Enterprise và vợ là violist Đoàn Thanh Tuyền đã đi từ ngày hôm qua. Kiểm điểm lại còn biết thêm Kim Anh, Uyên Ly của ban tam ca Ba Con Mèo cũng đã đi từ mấy hôm trước. Ông ca sĩ đầu đàn nhạc trẻ Jo Marcel thì đã rời Sài Gòn từ 19, 20 tháng Tư gì đó, cùng chuyến với Tổng Trưởng Kinh Tế Phạm Kim Ngọc, cùng gia đình bà thượng nghị sĩ “trăng sáng vườn chè” Pauline Văn Thơ, Kaxim thì ở lại vì có quốc tịch Tây, còn thì Tùng Giang, Tuấn Ngọc, Khánh Hà và gia đình Uptight nghe nói đã được George Esper (Trưởng Phòng hãng thông tấn AP ở VN) đưa vào và đang có mặt ở đây v.v… và v.v… À thì ra, thảo nào cậu Tùng Giang nhìn rất là bình tĩnh lúc gặp tôi và anh Trầm Tử Thiêng ở Givral sáng nay.
Đảo sang phía bên kia, tôi thấy ông Đỗ Ngọc Yến mặt trầm ngâm, đầy âu lo đang thì thầm trao đổi với ông Đỗ Quý Toàn, cạnh đó là gia đình vợ con và túi xách, túi mang. Chợt có người vỗ vai, tôi ngoảnh lại thì ra đó là ông nhà báo kiêm thi sĩ Kiêm Thêm. Ông Kiêm Thêm tươi cười hỏi thăm rồi đưa tay chỉ về phía trước, gia đình anh Lê Quỳnh kìa, tôi nhìn qua và vẫy tay chào. Khi ở bên ngoài lúc ông Võ rủ tôi vào Tân Sơn Nhất, mình cứ nghĩ là còn quá sớm mà đi đâu? Thậm chí khi anh Văn Quang nói tôi vẫn chưa tin, đến lúc vào trong này mới biết mình là một trong những kẻ muộn màng! Ông Đỗ Ngọc Yến còn chia sẻ “tin nóng” là gia đình Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Khiêm cũng vừa được CIA đưa vào phi trường để đi Đài Bắc tối nay. Còn nhiều gia đình người quen khác nữa, nhưng tôi tò mò muốn đến nơi người ta đang sắp hàng để được gọi tên lên máy bay.
Từ xa nhìn vào hàng người xếp theo thứ tự, lần lượt nghe đọc tên, rồi họ xướng lên “có mặt”, sau đó xách hành lý vào cân lượng rồi bước lên xe bus để được đưa đến thang phi cơ. Thật tình cờ tôi nhận ra người đọc tên là ông nhạc sĩ Đức Huy, còn người hành khách vừa trả lời “có mặt” lại là ông bạn Kiến Trúc Sư Nguyễn Tường Quý cùng gia đình. Thấy không khí thân tình, tôi đánh bạo bước lại gần hơn và la lớn cho anh Quý nghe: Lên đường bình an nhe anh Quý. Ông quay lại, nhận ra tôi vẫy tay từ giã vội vàng. Trong khi đó Huy cũng nhận ra tôi nheo mắt cười. Và cũng vì hành động này mà một “biến cố lớn” đã xảy ra trong cuộc đời lưu vong, viễn xứ của tôi!
8 giờ tối ngày 25 tháng Tư, 1975. Vừa đọc xong danh sách chuyến bay và hoàn tất việc di chuyển hành khách, Đức Huy bước ra ngoài tìm tôi và đưa ngay vào bên trong nơi Huy đang làm việc, toàn là các sĩ quan US Marines Corps vừa từ Mỹ bay sang, mặt còn đỏ hoe, để điều hành cuộc di tản khẩn cấp này, chỉ có Huy là người VN duy nhất. Mặc dù tôi và Huy gặp nhau hầu như mỗi ngày, hai đứa vẫn thay phiên dùng xe đi làm vài ngày mỗi tuần. Huy đưa tôi đến Quân Đoàn III ở Biên Hòa, sau đó chàng lái xe đến Bình Dương nơi Huy phục vụ tại Tiểu Khu này. Cả hai chúng tôi đều là các quân nhân đang tại ngũ, vậy thì Huy làm gì ở đây mà giờ này còn đứng gọi tên người lên phi cơ? Tôi ngại ngùng không dám hỏi, nhưng giả vờ thân mật nói đùa: Tao đâu có biết mày làm cho CIA? Vì chỉ có nhân viên CIA thì giờ này mới dám đứng gọi tên và quyết định cho ai đi, ai ở! Huy hì hì cười và tảng lờ hỏi tôi: Mày có đói bụng không? Tôi bảo: Hơi hơi, nhưng mua thức ăn ở đâu? Huy không trả lời, đứng dậy bước vào phía trong rồi đem ra cho tôi một cái Hamburger nóng hổi, thơm phức, gói trong giấy foil, cùng một lon Cola Cola lạnh buốt! Bụng đang đói, trời đang nóng, sực một miếng cái đã, chuyện đâu còn có đó!
Ăn xong tôi cám ơn Huy và hẹn lúc gia đình tôi đến nơi sẽ tái ngộ. Nhưng Huy kéo tôi lại và hỏi: “Ăn gì nữa không?” Tôi lắc đầu rồi bắt tay từ giã. Huy nói tiếp: “Đâu có dễ thế, chàng ăn no, uống đã rồi, thì bây giờ phải làm việc chứ”. Sau đó Huy giúi vào tay tôi một danh sách mới khoảng 30 gia đình và bắt tôi đọc tên để mời họ lên máy bay.
Đắn đo và lưỡng lự một hồi, Huy than mệt quá, tôi đành chiều theo ý Huy và bước ra ngoài, giọng nghiêm nghị mời mọi người có tên trong chuyến bay số…, hãy chuẩn bị xếp hàng. Mọi người nghe theo răm rắp. Tôi chợt cười thầm trong bụng: Hai tiếng đồng hồ trước còn là một tên “nhập cảnh lậu” vào DAO, hai giờ sau đã trở thành ”thầy chú”! Đúng là một cuộc đổi đời! Tối hôm đó tôi làm việc suốt cả đêm, không ngủ, giúp cho Huy chợp mắt vì hắn đã thức trắng đêm hôm qua. Lúc rảnh rang hai thằng ngồi tâm sự thì mới biết là Huy đã được Bill Fraser (Trưởng Phái Đoàn Hoa Kỳ trong Ban Liên Hiệp 4 bên), một fan trung thành của ban nhạc đưa cả gia đình vào Tân Sơn Nhất mấy ngày hôm nay và trong lúc chờ đợi, họ đã nhờ Huy đọc giùm tên người Việt cho đúng, có vậy thôi. Khi nào Huy đi thì họ lại nhờ người khác. Và người khác đó, không ai, chính là tôi. Và biết đâu nhiều người cũng đã chụp trên đầu tôi cái nón CIA? Tuy nhiên tôi chẳng bận tâm, niềm an ủi mà tôi nhận được trong công việc này, là lời hứa của anh chàng Thiếu Tá Mỹ đen, mọi người gọi anh là Bob. Thấy tôi làm việc khá vất vả, Bob nói: Ráng giúp họ đi, khi nào gia đình vào đến DAO anh sẽ cho mọi người đi sớm kể cả tôi, mà khỏi cần phải sắp hàng xin manifest chuyến bay.
Đêm kéo thật dài, đủ mọi chuyện hỷ, nộ, ái, ố của những nhân vật được (hay có thể là “bị”) tôi đọc tên lên phi cơ, nhất là các Sĩ Quan cao cấp của Quân Đoàn III và Sư Đoàn 5 hoặc các chính khách mà chúng tôi biết mặt, quen tên. Có người e ngại, có người sợ hãi như Đại Úy Hùng ở Trung Đoàn 8, SĐ 5, nhìn thấy tôi ông định bỏ về, nhưng tôi gọi ông lại và trấn an: Việc đi hay ở là không do tôi, ai có tên trong danh sách di tản cùng gia đình và được cấp giấy phép lên phi cơ thì họ có quyền đi. Tuy nhiên hầu hết khi bước qua mặt tôi, mọi người đều mỉm cười thân ái, mang một chút ân tình ở trong đó, đặc biệt là bà vợ và hai đứa con nhỏ của Đại Úy Hùng, bà gật đầu nhìn tôi và cười trong nước mắt. Những diễn biến đó đã làm cho tôi cảm thấy nhẹ người và quên đi bao nỗi căng thẳng, bàng hoàng của một ngày đầy biến động cùng một đêm dài nhất trong 30 năm cuộc đời.
Trong giây phút giằng co giữa đi và ở, giữa hạnh phúc và khổ đau đó, tôi bỗng nhớ đến Mẹ tôi ngày bồng bế lũ con thơ dại vượt biển vào Nam tìm tự do 21 năm về trước.
Và ngày hôm nay, 45 năm sau, ngồi viết lại đoạn hồi ký trên, tôi muốn cùng với quý vị và các bạn nghe lại nhạc phẩm “1954 Cha Bỏ Quê, 1975 Con Bỏ Nước” của nhạc sĩ Phạm Duy qua giọng hát Elvis Phương sau đây:
3. “Giờ này Bố Mẹ đang ở đâu…?”
Hôm nay là ngày 27 tháng Tư, 2020. Ngày này 45 năm về trước, tôi như kẻ đang ngồi trên đống lửa. Kể từ khi đặt chân một cách “bất hợp pháp” vào khu tập trung của những người được chính phủ Mỹ di tản theo kế hoạch “Orderly Evacuation Operation” ở phi trường Tân Sơn Nhất đến giờ này cũng đã gần 48 tiếng đồng hồ, mà vẫn không nhận được tin tức gì của gia đình cả? Tôi có mượn điện thoại của văn phòng DAO để gọi về nhà đôi ba lần, nhưng không ai nhấc phone, mà thuở ấy đã làm gì có cell phone để mà liên lạc! Tôi tự an ủi, chắc giờ này mọi người đang ngồi đợi ở một địa điểm nào đó để chờ được bốc lên xe? Mỗi khi có các chuyến bus màu vàng chở người từ Sài Gòn vào là tôi lại nhờ Đức Huy cover để chạy ra điểm mặt hành khách mới đến xem có gia đình mình hay không, nhưng vẫn biệt vô âm tín! “Giờ này Bố Mẹ đang ở đâu…?”, tôi cứ lẩm nhẩm một mình như thằng điên mỗi khi thất vọng, nhìn những chuyến xe bus thả hết người mà vẫn chẳng thấy bố mẹ và các em đâu cả!
Nhưng tôi biết giờ này trong lòng ông bà cũng lo lắng rộn ràng không kém gì tôi. Mặc dù hiện đang quây quần bên 10 đứa con khác, nhưng chắc chắn là vẫn thắc mắc, không biết số phận thằng con cả của mình giờ này ra sao? Sống chết thế nào, đã thoát được chưa hay đang ngồi tù trong quân lao? Tôi biết chắc như vậy vì tình thương vô bờ mà ông bà dành cho các con. 11 đứa mà lúc nào cũng lo lắng, chăm sóc hết sức cẩn thận cho từng đứa một. Tôi còn nhớ lần theo Tiểu Đoàn 3/8 đi hành quân, mùa Hè đỏ lửa 1972, tôi không về thăm nhà hay liên lạc gì với gia đình cả gần 3 tuần lễ, bố tôi nóng ruột lái xe xuống Phòng Báo Chí, Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn hỏi thăm thì được biết tôi đang công tác ngoài mặt trận Phú Giáo. Thế mà cụ theo con đường tỉnh lộ xuống tận nơi tìm con. Đậu xe ngoài ở ngoài quận, lần mò vào gần bãi chiến trường, bất chấp đạn pháo kích đang dội ầm ĩ. Đến khi gặp được tôi, cụ bảo để bố xin ông Tiểu Đoàn Trưởng cho con về thăm nhà, lâu lắm rồi chưa đi phép! Lúc đó tôi đang ngồi với Đại Úy Điền, Đại Đội Trưởng, cả bọn cùng cười rồi trấn an và khuyên cụ yên tâm ra về, vì ở đây anh em bảo bọc nhau kỹ lắm!
Cũng tương tự như thế, khi mẹ tôi vắng bóng thằng con út gần hai tháng không về thăm nhà. Nguyễn Nam Việt, nhập ngũ lúc đôn quân, Chuẩn Úy mới ra trường vừa tròn 18 tuổi đã “cầm quân diệt giặc”. Nhớ con, cụ năn nỉ nhờ người đưa đi thăm Việt, lúc ấy đang hành quân ở Chơn Thành. Nôn nao ngồi đợi con nơi hậu cứ gần 6 tiếng đồng hồ, ông con trai, Chuẩn Úy mảnh khảnh, gầy gò, Trung Đội Trưởng dẫn một toán quân gần 20 người trở về. Việt kể lại, cụ mừng quá ôm chầm lấy con xoa đầu, xoa tóc, xoa tay, xoa chân xem có mất gì không! Việt bảo, cả Trung Đội cười vỡ bụng. Mà thật ra cũng chẳng phải chỉ có bố mẹ tôi, cha mẹ nào thì cũng thương con như vậy, những đứa con mang nặng, đẻ đau sinh ra trong thời chinh chiến nên các bà mẹ Việt Nam thường “được” khóc nhiều hơn cười!
Bây giờ đã là 6 giờ chiều ngày 27, thế là đúng 2 ngày tôi ở trong căn cứ này. Đêm qua chợp mắt được khoảng 3 tiếng đồng hồ thì Đức Huy đánh thức dậy để từ giã ra đi, gia đình nó đã có chuyến bay. Tôi nắm tay Huy, cảm ơn, chúc lên đường bình an và hẹn gặp lại! Thú thật tôi cũng chẳng biết có gặp nhau nữa hay không, và nếu có thì gặp ở đâu? Thế nhưng tất cả các chi tiết đó đều là những điều “xa xỉ” đối với tôi trong lúc này. Tôi chỉ muốn tìm được câu trả lời: “Giờ này Bố Mẹ đang ở đâu…?”!
Huy đi rồi lòng tôi buồn vô hạn, dù công việc vẫn bận rộn và anh Thiếu Tá Mỹ đen vui tính tên Bob vẫn hay đùa giỡn đem niềm vui đến cho mọi người, nhưng tôi chỉ biết gượng cười. Càng bận rộn gọi tên người tới tấp lên các chuyến bay, tôi lại càng thêm nóng ruột. Tất cả những người quen, người bạn mà tôi nhắc đến ngày hôm qua, đều đã lần lượt lên đường, đích thân tôi gọi tên từng người. Tôi lại ước ao, phải chi giờ này bố mẹ và các em đang có mặt ở đây! Không còn nỗi khổ tâm nào hơn khi mình đã tiễn cả ngàn người đi mà không có được một vài người thân trong gia đình!
Các chuyến xe bus vàng định mệnh của quân đội Mỹ lại đổ thêm hàng trăm người xuống khuôn viên DAO. Lại ồn ào, náo nhiệt, lại tiếng khóc, tiếng cười, tiếng than, tiếng nấc. Niềm an ủi duy nhất đối với mọi người lúc bấy giờ là cuộn băng cassette “Tình Khúc Ngô Thụy Miên” vừa phát hành và được đón nhận rất nồng nhiệt ở khắp mọi nơi. Đây cũng là tác phẩm đầu tay của người nhạc sĩ trẻ này. Ở Sài Gòn hay đâu đâu cũng vang lên những bản tình ca êm ả, lãng mạn của Ngô Thụy Miên, nhất là ở đây và trong giờ phút này. Hình như ông Trời đã sắp đặt để Ngô Thụy Miên cho ra đời băng nhạc này như là một liều thuốc an thần để an ủi người dân Sài Gòn trong cơn dầu sôi, lửa bỏng của những ngày tháng chất chứa bao khổ đau đang từ từ ập xuống! Ngoài nhạc Ngô Thụy Miên, người ta còn cho phát liên tục bản “Nếu Xa Nhau” của Đức Huy, họ dùng ca khúc này như một lời từ giã. Từ giã người thân yêu hay từ giã nơi chôn nhau, cắt rốn để đến một nơi vô định.
Tôi may mắn được quen cả hai người nhạc sĩ khả ái này, lại còn là bạn đồng môn của trường Nguyễn Trãi trước khi đổi sang Chu Văn An năm Đệ Nhị Cấp. Nhạc Ngô Thụy Miên và Đức Huy đa số là những bản tình ca êm đềm và thắm thiết, họ rất ít và hình như không viết về tỵ nạn hay thân phận, ngoại trừ một số tình khúc chia ly nhẹ nhàng nhưng không kém phần chua xót. Hôm nay tôi xin mời quý vị và các bạn cùng nghe lại những bản nhạc đó: “Khóc Một Dòng Sông” của Đức Huy qua giọng hát Ngọc Lan và “Em Còn Nhớ Mùa Xuân” của Ngô Thụy Miên, Sĩ Phú trình bày.
Tin giờ chót: Anh chàng Thiếu Tá Bob vừa lôi tôi ra một góc kín và nói nhỏ vào tai tôi là, chương trình di tản chắc phải chấm dứt vào khuya hôm nay, vì tin tình báo cho biết, VC sẽ pháo kích phi trường Tân Sơn Nhất vào sáng sớm ngày mai, 28 tháng Tư, 1975??? Nghe tin như sét đánh ngang tai, tay chân bủn rủn, rụng rời, tôi lại sống trong trạng thái bàng hoàng của hai ngày trước đó!
Giờ này Bố Mẹ đang ở đâu…?” Tôi sẽ phải quyết định ra sao, liệu gia đình tôi có kịp vào đây không? Nếu không thì số phận họ sẽ như thế nào, còn tôi thì sẽ ra sao? Hay chỉ còn biết ngồi gục đầu “khóc một dòng sông”?
4. “Sài Gòn Ơi, Vĩnh Biệt!”
Từ lúc 7 giờ tối ngày hôm qua (27 tháng Tư, 1975), khi ông Thiếu Tá Bob Smith tiết lộ cho tôi biết tin VC sẽ pháo kích vào phi trường Tân Sơn Nhất sáng nay, 28 tháng Tư, 1975, và các phi vụ di tản gia đình nhân viên sở Mỹ sẽ chấm dứt vào lúc nửa khuya, thì lòng tôi rối như tơ vò, không còn muốn làm gì nữa, cứ đứng ở bến xe bus đổ người chờ xem bố mẹ và các em bằng một phép lạ nào đó, đến được đây vào giờ phút cuối cùng này?
Xe vẫn đến, khách vẫn xuống, rồi xe lại đi, bóng người thân vẫn biền biệt, nhưng tôi tiếp tục ngồi lì ở đó, chờ đợi chuyến bus sau, một mình suy ngẫm. Thì ra người Mỹ đã biết trước là họ sẽ bỏ Việt Nam từ cả tháng nay vì thế mới có các kế hoạch di tản bài bản, nhịp nhàng như vậy. Kẻ trước người sau, ưu tiên cho ai và sẽ bỏ mặc ai nếu cần thiết, mà một quân nhân bình thường như tôi không thể nào biết được vì luôn luôn phải bận rộn thi hành quân vụ. Đến giờ phút này, bao chiến hữu của tôi vẫn đang cầm súng chiến đấu ở nhiều mặt trận mà không biết rằng họ đang chống cự trong cơn tuyệt vọng, “người bạn đồng minh” đã phụ chúng ta! Nhìn thấy các nhân viên sở Mỹ được ưu tiên di tản, nhìn thấy các “yếu nhân” trong chính quyền âm thầm bỏ nước ra đi, bây giờ nghe họ tiết lộ “tin tình báo” là VC sẽ pháo kích phi trường Tân Sơn Nhất, lại càng cho tôi thấy rõ âm mưu bỏ miền Nam VN của chính phủ Hoa Kỳ, mà nạn nhân khổ đau nhất sẽ là các quân, dân, cán, chính VNCH bị bỏ lại, và sẽ phải đối mặt với kẻ thù!
9 giờ tối, Bob đến bãi xe bus tìm tôi, hắn vỗ vai nói: “You got to go buddy, no more bus drops, we have only two more flights”! Ôi, thật là phũ phàng và đau đớn. Tôi hỏi Bob, hoàn cảnh gia đình tôi đang chờ tại DAO office ở Sài Gòn thì sao? Bob nói, sẽ có helicopters bốc họ ra ngoài hạm đội! Nghe như chuyện thần thoại vậy, đến lúc này tôi chẳng còn biết có nên tin người Mỹ nữa hay không?
Bob kéo tôi trở lại nơi cổng departure, cho tôi mấy miếng sandwiches, một lon nước ngọt, hắn bảo ăn đi, rồi lên đường “if you don’t want to live with VC”! Thật là chua chát! Họ đã bỏ quê hương tôi thật rồi, họ cũng mặc kệ gia đình tôi và hàng ngàn người đang chờ đợi được giải cứu! Hơn bao giờ hết tâm trạng giằng co giữa “đi hay ở” lại đến với tôi! Trước mặt tôi còn khoảng hơn 500 người vẫn đang chờ đợi để được gọi tên đi, họ không biết rằng chỉ còn 2 chuyến bay nữa mà thôi, đủ chỗ cho chừng 100 người là hết sức. Rồi chuyện gì sẽ đến với họ khi chuyến bay cuối cùng cất cánh? Số phận họ sẽ ra sao lúc sớm mai khi đạn pháo kích của Cộng quân dội xuống địa điểm này? Tôi không dám nghĩ tiếp… Thiếp mắt trong ác mộng chờ chuyến bay cuối cùng! Tôi mơ thấy mẹ đưa mấy đưa em gái vào được bên trong, bố và 3 thằng con trai kẹt lại ở bên ngoài… Giật mình tỉnh dậy, mồ hôi toát đầy người, thì ra là mộng tưởng!
Đồng hồ điểm 12 giờ đêm, Bob đưa tôi danh sách cuối cùng gọi tên, khoảng 50 người mệt mỏi đợi chờ, lếch thếch khiêng va-li, túi xách lên đường. Bob nắm tay tôi thật chặt, nhìn tôi thật lâu vỏn vẹn nói hai câu “thank you and good luck”! Tôi như kẻ mất hồn, lủi thủi theo đoàn lữ hành trong đêm khuya ngày 27 rạng sáng 28 tháng Tư, 1975 lần lượt chui vào chiếc C-130 định mệnh đưa tôi vào một cuộc đời vô định hướng.
12:45 sáng, 28 tháng Tư, 1975, phi cơ cất cánh, nhìn ra ngoài cửa sổ, Sài Gòn mờ dần trong bóng đêm, leo lét những ánh đèn, nhạt nhòa trong nước mắt, tôi thốt lên “Sài Gòn ơi, vĩnh biệt”, rồi cùng khóc với mọi người. Có ngờ đâu đó chính là tựa đề nhạc phẩm đầu tiên mà tôi sẽ sáng tác tại hải ngoại! Nó cũng đã được “thai nghén” vào những ngày cô đơn, sầu tủi trong trại tỵ nạn Pendleton.
Tôi còn nhớ đã hát thử cho Trung Hành nghe trong căn lều vải, nằm dưới thung lũng buồn của trại. Chỉ vừa có vài câu đầu thôi mà hắn đã khóc như một đứa trẻ, đâu biết rằng tôi mới viết chưa xong được đến một nửa bài. Cho mãi đến sau này, khi xuất trại, thật sự đối diện với cuộc sống lưu vong, đầy gian truân, mồ hôi và nước mắt với bao nhọc nhằn, tủi nhục trong thời gian đầu, cộng với nỗi thương nhớ gia đình. Vào giữa tháng 11, 1975 tôi mới hoàn tất nhạc phẩm “Sài Gòn Ơi, Vĩnh Biệt!”. Khánh Ly thu thanh lần đầu tiên vào mùa Xuân 1976, ông Lê Văn của đài VOA phỏng vấn Khánh Ly và tôi, rồi sau đó phát thanh bài này về VN vào tháng Tư, 1976 nhân dịp kỷ niệm một năm ngày Sài Gòn sụp đổ.
Vào tháng Tư, 1978 đài truyền hình KSCI-Channel 18 tại Los Angeles đã dành cho hội Nghệ Sĩ VN và cộng đồng Người Việt California một chương trình kỷ niệm 3 năm ngày xa xứ, có tên là Giao Chỉ, do hai tài tử Lê Quỳnh và Kiều Chinh giới thiệu, Khánh Ly đã trình bày ca khúc “Sài Gòn Ơi, Vĩnh Biệt!” của tôi lần đầu tiên trên hệ thống truyền hình. Mời quý vị cùng nghe và xem lại sau đây, cùng âm thanh và hình ảnh, tuy rất thô sơ nhưng đầy kỷ niệm của 42 năm về trước:
Nhạc phẩm này cũng hân hạnh được nhiều ca sĩ thu thanh, thu hình. Mỗi người một giọng hát, một lối trình bày, một cách diễn tả và được người thưởng ngoạn yêu thích khác nhau. Tôi xin mời quý vị cùng nghe lại dưới đây, kể cả phần trình bày của tác giả ca khúc “Sài Gòn Ơi, Vĩnh Biệt!”:
