Hôm nay chợt có người nhắc rằng ngày 12 tháng 5 là sinh nhật nhà thơ Thâm Tâm. Lòng mình chợt thấy như mưa bụi bay trước mắt, và nhớ mấy dòng thơ “Tống Biệt Hành.”
Đúng ra, thi sĩ Thâm Tâm sang tác nhiều, nhưng bài thơ tuyệt vời nhất vẫn là bài ca tống biệt đó, có vẻ như trước giờ lên đường vào trận…
Theo các tin phổ biến, thi sĩ Thâm Tâm sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917 tại Hải Dương, Việt Nam. Và hãy nhớ rằng thi sĩ chết rất trẻ, khi mới 33 tuổi, lúc đó là năm 1950.
Thâm Tâm cũng là một nhà viết kịch Việt Nam. Nghĩa là đa tài. Ông tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, xuất thân trong một nhà giáo nền nếp, thuở nhỏ, từ năm 1938, ông học tiểu học ở Hà Nội, từng vẽ tranh để kiếm sống. Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm và Truyền bá quốc ngữ... Ông từng thử sức trên nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui...
Năm 1945, Thâm Tâm tham gia văn hóa Cứu quốc, kháng chiến chống Pháp. Đươc kể là ông mất sau một cơn bệnh đột ngột ngày 18 tháng 8 năm 1950 trên đường đi công tác trong chiến dịch Biên giới, ở tỉnh Cao Bằng.
Thâm Tâm cũng nổi tiếng với mấy bài thơ tình tặng cho giai nhân bí ẩn T.T.Kh. Nhưng nhớ nhất vẫn là bài hành, được hai nhà phê bình Hoài Thanh & Hoài Chân chọn in trong Thi nhân Việt Nam, kèm theo đôi dòng giới thiệu Thâm Tâm:
“Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài dưới đây (Tống biệt hành) lại thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ gắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại.”
Để tưởng nhớ, xin ghi lại bài thơ tuyệt vời này như sau:
Tống Biệt Hành
Đúng ra, thi sĩ Thâm Tâm sang tác nhiều, nhưng bài thơ tuyệt vời nhất vẫn là bài ca tống biệt đó, có vẻ như trước giờ lên đường vào trận…
Theo các tin phổ biến, thi sĩ Thâm Tâm sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917 tại Hải Dương, Việt Nam. Và hãy nhớ rằng thi sĩ chết rất trẻ, khi mới 33 tuổi, lúc đó là năm 1950.
Thâm Tâm cũng là một nhà viết kịch Việt Nam. Nghĩa là đa tài. Ông tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, xuất thân trong một nhà giáo nền nếp, thuở nhỏ, từ năm 1938, ông học tiểu học ở Hà Nội, từng vẽ tranh để kiếm sống. Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm và Truyền bá quốc ngữ... Ông từng thử sức trên nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui...
Năm 1945, Thâm Tâm tham gia văn hóa Cứu quốc, kháng chiến chống Pháp. Đươc kể là ông mất sau một cơn bệnh đột ngột ngày 18 tháng 8 năm 1950 trên đường đi công tác trong chiến dịch Biên giới, ở tỉnh Cao Bằng.
Thâm Tâm cũng nổi tiếng với mấy bài thơ tình tặng cho giai nhân bí ẩn T.T.Kh. Nhưng nhớ nhất vẫn là bài hành, được hai nhà phê bình Hoài Thanh & Hoài Chân chọn in trong Thi nhân Việt Nam, kèm theo đôi dòng giới thiệu Thâm Tâm:
“Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài dưới đây (Tống biệt hành) lại thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ gắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại.”
Để tưởng nhớ, xin ghi lại bài thơ tuyệt vời này như sau:
Tống Biệt Hành

Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thẳm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng...
.
- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
.
Ta biết người buồn chiều hôm trước,
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen,
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
.
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Trời chưa mùa thu tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
.
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay.
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
Thâm Tâm (1940)
Có thể tin rằng, bài thơ này sẽ bất tử, sẽ không bị quên đi, dù là 2 hay 3 thế kỷ nữa. Vị trí bài thơ đã vững chắc trong tim người đời rồi, bất kể rằng thi sĩ đoản mệnh…
Cô Tư Sài Gòn