User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
nguoigia 
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
(Tô Thùy Yên)
 
1.
Sydney, nước Úc đã vào đông. Cái mùa lạnh giá này kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8 hằng năm và sáng nay, mặt trời chưa lên thì nhiệt độ đã xuống còn 2 độ C, khiến nhớ ở quê nhà, nhớ cái độ lành lạnh ở Đà Lạt chỉ ở mức trên dưới 15 độ C mà dân Sài Gòn đã luôn ca ngợi và mơ ước.
 
Qua đây định cư đã 2 năm, tôi đón mùa đông thứ nhì này ở tuổi 75. Theo qui luật, “già” thường đi đôi với “yếu” thôi – nhất là mình dân Châu Á hom hem, chịu lạnh thường dở hơn dân da trắng to béo. Qua mùa đông này tôi đã phải ‘võ trang’ lên người nhiều lớp quần áo hơn, áo ấm hay áo khoác ngoài dày hơn, cả vớ dưới chân cũng đổi từ vớ nylon sang vớ len và mang cả ban ngày. Đã vậy, sáng nay ngủ dậy rửa mặt lại có vài tia máu đỏ tiết ra ở lỗ mũi. Con gái tôi giải thích đó là do lạnh, đó là chuyện bình thường vào mùa lạnh: mạch máu nhỏ ở vách mũi co lại và vỡ ra…
 
Suốt đêm qua chập chờn, khó ngủ nên tôi đành dậy sớm một cách không cần thiết, nhưng bù lại, tách cà phê đầu ngày quá ngon! Thôi thì, già rồi thì cái thời khắc ‘cà phê sáng một mình bên laptop’ tĩnh tại, lặng lẽ này quả là một hạnh phúc, nhỏ bé khiêm tốn thôi – nhất là ít tốn hao. Sao lại “ít tốn hao” ở đây? Nguyên vào thời còn sinh viên ở Sài Gòn, tôi ở trọ trong một con hẻm xóm nghèo, hàng xóm có một người già, tạm gọi là bác Tư, tuổi đã ngoài 70 như tôi bây giờ. Dù sống chung với vợ chồng con trai lớn nhưng lúc nào bác cũng thui thủi một mình. Bác Tư kể là do già rồi thì ngủ rất khó, mà có ngủ được cũng ngủ rất ít. Ban đêm bác cứ nằm trằn trọc, mong trời mau sáng – đúng hơn là bác thao thức mong sớm đến giấc 2 giờ, trời còn khuya nhưng là giờ cái quán cóc bán cà phê ở đầu hẻm rục rịch mở cửa. Vậy là bác Tư chỗi dậy, khẽ khàng mở cửa ra khỏi nhà, để dù gặp lúc mưa đêm vẫn còn lâm râm, bác vẫn thả bộ ra quán. 
 
Hồi đó, hiếu kỳ trước nếp sống thầm lặng của ông già nghèo, có bữa chàng trai trẻ là tôi cũng theo chân bác Tư ra quán. Thì ra, cứ mỗi đầu ngày, bác Tư cùng hai ông bạn già nữa – cũng dân trong xóm – luôn là những người khách mở hàng cho cái quán cóc xập xệ này vào lúc trời còn chưa hừng đông, cả khi trời mưa lâm râm. Trong lúc chờ anh chủ quán còn sật sừ chưa tỉnh ngủ lục đục nấu nước sôi thì để có chỗ ngồi, ba ông khách quá quen này cứ tự tiện bày dọn chỗ ngồi từ đống bàn ghế đã xếp chồng khi quán đóng cửa đêm qua. Ba ông già ngồi im lìm trong bóng tối, rất ít khi nói câu nào trong khi chờ món uống…
 
Bên ngoài đã hừng đông nên trời sáng chút ít nhưng trong quán vẫn tối mò bởi chủ quán hà tiện, chỉ mở cái bóng đèn nhỏ chỗ pha chế. Trời hơi se lạnh, bác Tư ngồi co ro, một giò kéo lên ghế, cánh tay ôm đầu gối kéo sát vào người cho ấm. Nhưng khi anh chủ quán mang cà phê đến bàn, bác bỏ giò xuống liền và chồm người tới đón tách cà phê của mình. Ba cái xây chừng nóng hổi! Theo thói quen, ba người già xớt cà phê ra cái dĩa lót, thổi phù phù cho mau nguội rồi húp từng ngụm, trông thật ngon lành.
 
Vẻ mãn nguyện lộ rõ trên gương mặt những người già nghèo nàn này, không hơn không kém một niềm hạnh phúc đơn sơ, bình dị nhất sau bao thăng trầm đời người. Hơn thế, như bác Tư từng thố lộ: “Già rồi, ngủ không được, sáng dậy dù nghèo nghèo mà có ly cà-phe là vui cháu à. Mà có mấy đồng bạc thôi, đâu  tốn hao gì nhiều”. 
 
2.
Rồi đến sau biến cố tháng 4 -75, tôi gặp cảnh ‘một nhà hai quê’, vợ con phải ở đỡ bên nhà cha mẹ vợ ở Bà Rịa, còn tôi náu thân ở Sài Gòn bởi công việc kiếm sống tại thành phố này. Do thường xuyên về Bà Rịa và hay ở lại nhiều ngày, tôi lại có dịp gần gũi với một vài người già, tạm gọi là “đám ông Mười”.
 
Đã hơn 40 năm trôi qua, giờ tôi đã lọt vào tuổi già bằng hầu hết những người già trong “đám ông Mười” vào cái thời trong nước còn rất khó khăn, thiếu thốn ấy. Không hiểu sao, ở đất Bà Rịa tối tăm ấy, tôi chỉ tiếp cận đám người già này chỉ trong 2-3 năm ngắn ngủi nhưng cho đến ngày nay, trí nhớ tôi vẫn ghi khắc rất rõ nét về cuộc sống của họ… Tôi nhớ là, do ngụ cùng xóm, qua lại dễ dàng bởi nhà ở gần gần nhau, cái nhóm 4-5 ông già này thích tụ tập ở nhà ông Mười tức cha vợ của tôi nhất, cứ như đây là trụ sở sinh hoạt một “câu lạc bộ phụ lão” thu nhỏ và tự phát mà ông Mười, được tiếng hiền lành, tử tế kia coi như chủ nhiệm CLB. Kế đó, phải kể đến hội viên nhiệt tình nhất: bác Sáu Sơn, nhà ở đối diện nhà ông Mười. Hai người là anh em cột chèo do vợ ông Mười là em ruột vợ bác Sáu. Rồi, dù chẳng có lý do, công việc cần kíp gì, ngày nào bác Sáu cũng có thể bước qua nhà bạn già đến 2 – 3 bận. 
 
Khi vỏn vẹn chỉ bác Sáu với ông Mười hay cả khi đông đủ 4-5 ông, đám bạn già chỉ quanh quẩn bên chiếc bàn nhỏ kê ở nhà trước. Khách vào nhà cứ tự động ngồi vào cái ghế mà có lẽ mỗi người đã ngầm chọn trước cho mình – lý do có lẽ là ai nấy đều muốn chỗ có thể dựa vào vách tường, hay để dễ nhìn ra đường chẳng hạn; còn chủ nhà thì luôn nói vắn tắt “Ngồi chơi!” rồi khẽ khàng châm thêm nước nóng bình thủy vào bình trà hay pha trà mới. 
 
Điều đáng nói là đám người già này rất lặng lẽ. Ngay lúc chạm mặt nhau tại miếng sân trước nhà, khách cùng chủ nhà rất hiếm khi lên tiếng, ai nấy chỉ nhướng mắt một cái hay gật đầu thật nhẹ, coi như chào nhau. Và sau đó, khi bắt đẩu buổi uống trà họ cũng có chuyện trò, như trao đổi nhau vài tin tức, nhắc chuyện xa xưa hay chuyện hồi mới tiếp thu tức 30 tháng Tư… Nhưng mảng sinh hoạt có-tiếng-nói và cử-động ấy rất sớm tự lụn tàn hay bị bỏ ngang. Nói qua nói lại một đỗi, ai nấy như bị hụt hơi hay bí đề tài, hoặc thậm chí chợt làm biếng nói mà dần hồi nối tiếp nhau ‘tắt đài’. Nhiều khi, một người còn ráng kể cho xong đoạn chót của câu chuyện cũ hay đặt một câu hỏi bâng quơ, nhưng thấy người kia hay những người kia cứ im bặt, dửng dưng không phản ứng gì thì người này cũng nín luôn. Ai nấy ngồi thừ ra, im lặng. Và nếu có nhìn sâu vào những đôi mắt già nua mới thấy đó là những đôi mắt trống rỗng, không vui cũng không buồn, cũng không có gì là trầm ngâm, lo nghĩ. Họ cùng làm thinh rất lâu, hết ngó người đối diện lại ngó ra đường, có khi cả 20 phút hay nửa tiếng đồng hồ trôi qua mới nghe ông nào đó kiếm ra chuyện gì đó mà lên tiếng. Cũng có khi chủ nhà bỏ mặc khách một mình, ra nhà sau làm việc gì đó, đến khi trở lên nhà trước thấy trống trơn mới biết khách đã lặng lẽ ra về tự lúc nào mà chẳng thèm có một lời hô lớn để kiếu từ; còn nếu khách chưa về, màn kịch câm-phân-nửa lại diễn tiếp.
 
3.
Đúng ra, hằng ngày “đám ông Mười” cũng có khi thay đổi thói quen im lặng thông thường, ngược lại còn có thể rộn ràng tranh cải – đó là khi ông nào đó trong đám chợt bàn đến một đề tài mà riêng đối với tất cả người già ở đây, dù nghèo dù khá một chút nhờ ‘con cái cho tiền’ cũng đều là một chuyện rất hot, tuyệt đối quen thuộc: đánh số đề. Chỉ cần một ông lên tiếng hỏi trỏng trơ: “Sao, bữa nay đánh con mấy đây?” là lập tức có người khác hưởng ứng, lên tiếng liền, như: “À đúng rồi, con mấy há, để trưa tui đi ghi ké với…” hay “Sao, anh Mười? Đêm qua có thấy con gì hôn?”.
 
Vâng, tôi nhớ rõ nhất là vào một lần ông Mười/cha tôi trúng số đề thì kiểu sinh hoạt trầm lặng, ù lì của đám bạn già đã xao động, thay đổi. Lần đó, so với các bạn nghèo từng trúng thì cha tôi trúng hơi nhiều hơn một chút. Đó là từ 20 ngàn đồng tiền xác đánh ‘con bướm’ tức con số 41, ông trúng được 1 triệu 4. Vốn tử tế, ông Mười bèn đãi năm ông bạn cùng xóm cà phê ăn sáng, tôi cũng được đi theo. Ra đến chợ, vô ngay một quán cà phê quen, cha tôi vui vẻ nói, đại khái bữa nay ông đãi nên anh em khỏi kêu cái cà phê đen rẻ mạt, tiện tặn như mọi bữa mà cứ thoải mái kêu mấy thứ mắc tiền hơn như cà phê sữa, cà phê sữa đá và cứ kêu ly lớn, hay bất cứ thứ uống gì mình khoái nhất. Và dù trong đám chỉ còn một duy nhất một ông ghiền thuốc lá, đang hút thuốc vấn, cha tôi vẫn gọi một gói ba-con-năm với hộp quẹt bỏ ra bàn.
 
Sau chầu cà phê, cả đám đến một tiệm hủ-tíu-mì cũng ở gần chợ. Cần nói thêm là bữa đãi-trúng-đề này đã không hề thiếu ông Hai. Nét đặc trưng của ông già này là tu hành, luôn luôn mặc bộ nâu sòng và có dựng một cái am nhỏ ở cuối xóm để tu một mình. Người tu hành thì ăn chay nhưng ông Hai hình như không bao giờ vướng víu chuyện chay lạt, vào quán vừa ngồi xuống là ông đã gọi liền một tô mì lớn, đặc biệt có thêm vừa hoành thánh vừa xí quách, rồi rổn rảng nói: “Mười à, kêu một xị ngon thiệt ngon đi! Tui kêu mồi tô xí quách hoành thánh rồi nè! Từ hồi Tết tới giờ tụi già mình có nhậu lần nào đâu? Còn bữa nay anh trúng ‘con bướm’. Vui mà!Vô chút chút đi! ”. Cái gọi là bữa-đãi-trúng-đề kết thúc, mấy ông già lại lủ khủ thả bộ về xóm nhà. Họ lại im lặng lê chân, bước chậm chạp trên vỉa hè…
 
4.
Giờ này tôi vừa phục hiện lại trong tâm tưởng hình ảnh “đám ông Mười” một thời đã khá xa xưa - những người già nghèo khó, sống thiếu thốn, mòn mỏi ở đất Bà Rịa hiu quạnh, tối tăm ấy, và cao trào là cảnh tượng họ đã chợt có tham dự một bữa-đãi-trúng-số-đề thiệt vui vẻ tức một dịp được ăn uống thiệt ngon lành, thừa mứa…
 
Tôi cảm thấy ấm áp hơn khi nhấp tách trà nóng vừa tiếp tục mường tượng diện mạo những người già ấy khi ấy đã tươi vui hẳn lên, tức ít nhiều chợt có sức sống hơn lúc bình thường của tuổi già hẩm hiu…
 
Phạm Nga
(Sydney, mùa đông 2025)
Nguồn: https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=30771