
Hủ tiếu. (Hình minh họa: Pixabay)
Dắt em vô tiệm, ăn hủ tiếu Mỹ Tho. Ăn xong, móc tiền ra trả, ráng gượng làm vui trước mặt em vì sợ em chê mình bần, nhưng trong bụng thầm than: “Ngon nhưng mắc quá!”
Thốt ra câu than đó, nghe sao mà thân thương tiếng của quê mình. Chữ mắc, rặt ròng, là tiếng mẹ đẻ của dân miệt vườn từ thuở tui mới học lớp năm. Mắc là xót tiền, nhưng vẫn vui, vẫn thấy ngon, nhứt là thấy cái miệng em nhai vẫn thấm cái hồn quê trong từng muỗng nước lèo.
Nhớ lại năm 1968, Tết Mậu Thân, tô hủ tiếu chú Phu bán bên hông rạp hát Định Tường 30 đồng, tiệm hủ tiếu Phánh Ký bên kia Cầu Quay đầu đường Đinh Bộ Lĩnh bán tới 35 đồng. Mắc hơn 5 đồng, nhưng khách vẫn kiên nhẫn chờ phổ ky bưng ra tô hủ tiếu nóng hổi, thơm mùi nước lèo, tôm, thịt ngon bá chấy bù chét!
Ngày xưa, dân Mỹ Tho nói mắc, chớ có ai nói “đắt” đâu. “Đắt” – tiếng Ba ke hai nút, tiếng Bắc 75 xâm nhập theo sách báo, truyền hình, trường học, rồi lọt vào cả miệng trẻ con miền Tây.
Người miền Tây thời VNCH vẫn còn giữ những câu nguyên gốc, như một phép màu của văn hóa:
“Tô hủ tiếu mắc quá!”
“Tô bánh canh giò heo mắc quá!”
“Mắm sặc mà, thấy anh đàn ông con trai má sai đi chợ, nỡ lòng nào em bán mắc cho anh?”
Nghe là biết ngay giọng rặt ròng miền Tây, không bị Bắc 75 hóa, không bị sách báo nhồi sọ. Một câu ngắn mà bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu mùi hương, bao nhiêu tình quê dồn hết vào trong đó.
Tiếng Bắc 75 xâm thực: bán đắt hay bán mắc? Ai ra Hà Nội hay đọc báo, xem tivi, nghe đâu cũng “bán đắt quá”. Dân miền Tây nghe, ngẩn ngơ: mắc hay đắt hả trời? Một chữ mà sao nghe xa lạ, nghe cứng, nghe mất cả mùi dừa Bến Tre, mùi nước lèo hủ tiếu Mỹ Tho ngày cũ.
Ngày xưa, ông bà ta nói mắc, khách nghe là biết ngay: tô hủ tiếu này phải trả tiền nhiều hơn tô hủ tiếu gõ. Nay chữ đắt vào, cả câu nói biến dạng, vị hủ tiếu bớt thơm, hồn quê bớt nồng như ngày cũ.
“Tô hủ tiếu này do chính tay em nấu, tính anh có ba chục đồng không có mắc đâu anh!”
Anh cười, chính vì vậy anh mới khoái ăn em. Í quên nói lộn, nói lại, anh mới khoái ăn tô hủ tiếu của em.
Còn nghe: “Bát hủ tiếu hiệu ăn này đắt quá!”
Nghe vậy, không còn hồn quê, cứ như đọc báo Hà Nội Mới, lạnh lùng, xa xăm, mất hết vị quê nhà.
Hủ tiếu Mỹ Tho không chỉ là món ăn, mà còn là văn hóa, phương ngữ, hồn quê của đất quê nhà. Chữ đắt trong ngôn ngữ người Mỹ Tho cũng có. Thường chữ đắt xuất hiện trong thành ngữ: “Mua may bán đắt.”
Mua may: lúc mua gặp may mắn, mua được món vừa ý, vừa tốt, vừa rẻ. Bán đắt: bán được món hàng có nhiều người mua, có lời nhiều. Ghép lại, cả câu là một lời chúc làm ăn thuận lợi, mua được giá hời, bán ra lời, ai nấy đều vui vẻ.
Dân miền Tây đi chợ mua rau gặp cô bán hiền không chanh chua, nguýt hái là mua may; em gặp nhiều khách móc xỉa ngay không trả giá bớt một thêm hai là em bán đắt. Bán đắt vì em không bán mắc.
“Gặp khách dễ chịu như anh, mở hàng như vậy là em hên cả tuần, em mua may bán đắt là cái chắc.”
Nghe em nói là biết ngay cái hồn miền Tây, vừa thương người vừa vui với mình.
Người Mỹ Tho còn dùng ba chữ “giá phải chăng” để khen nữa “Tô hủ tiếu này giá phải chăng, nước lèo thơm, ăn ngon”
Phải là đúng, hợp lý, vừa túi tiền, công bằng cho người mua và người bán. Chăng hòa vào để thành từ ghép, nghĩa là vừa phải, hợp lý, không còn là nghi vấn như “có phải không?”
Vợ sai đi chợ, mua rau, mua mắm, cần giá phải chăng cho con vợ anh nó vừa lòng. Câu nói nhỏ mà mang cả tinh thần miền Tây: mộc mạc, thấm thía, giữ được hồn quê trong đời sống hằng ngày.
Giữ hồn quê trong tô hủ tiếu Mỹ Tho. Ăn tô hủ tiếu, nghe tiếng mắc, rẻ còn nguyên, là thưởng thức cả miền Tây còn sống. Chữ đắt của Bake hai nút là bóng ma CSBV xâm thực, làm hồn quê chùng xuống.
Người Mỹ Tho phải giữ gìn tiếng mẹ đẻ như giữ nước lèo, giữ bánh tôm chiên, vài lát thịt heo mỏng như tờ giấy quyến trong tô hủ tiếu.
Một câu nói giản dị: “Tô hủ tiếu ngon nhưng mắc quá!” nghe sao mà thân thương, nghe sao mà thấm thía. Ăn hủ tiếu, nghe tiếng nói, là thưởng thức cả bầu không khí quê hương.
Mắc, rẻ, giá phải chăng vẫn rặt ròng, nghe là thấy quê hương, thấy hồn miền Tây còn sống trong từng chữ một.
Đoàn Xuân Thu
